Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma tuý số 102/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 102/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2022/TLST- HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2022/QĐXXST-HS ngày 15/7/2022 đối với bị cáo:

Lê Anh T, sinh năm 1971; Giới tính: Nam.

ĐKHKTT và chỗ ở: số 8/50 LHP, phường NT, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 01/12 Con ông Lê Văn C (đã chết) và bà Đoàn Thị Th.

Gia đình có 09 chị em. Bị cáo là con thứ ba. Vợ: Nguyễn Thị Hải V (đã ly hôn).

Bị cáo có 01 con sinh năm 1994. Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 08/10/1988 Công an Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 43 ngày 02/4/1994 của Công an Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 100.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

- Bản án số 83 ngày 07/9/1995 của Tòa án nhân dân Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân.

- Bản án số 18 ngày 09/02/1996 của Tòa án nhân dân Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 06 tháng tù về tội Đánh bạc; tổng hợp hình phạt của Bản án số 83 ngày 07/9/1995 buộc Lê Anh T phải chấp hành 15 tháng tù. Ra trại ngày 04/9/1996; đình chỉ thi hành án dân sự ngày 02/8/2010.

- Bản án số 89 ngày 03/7/1997 của Tòa án nhân dân Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (tài sản trị giá 850.000 đồng). Ra trại ngày 09/8/1998.

- Bản án số 40 ngày 28/02/2000 của Tòa án nhân dân Thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân. Ra trại ngày 17/5/2002, đình chỉ thi hành án dân sự ngày 22/9/2010.

- Bản án số 13 ngày 05/3/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt 08 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 01/9/2009; đình chỉ thi hành án dân sự ngày 20/9/2013.

- Bản án số 200/2010/HSST ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 30/6/2011; đình chỉ thi hành án dân sự ngày 08/6/2016.

- Bản án số 160/2017/HSST ngày 25/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 23/10/2018; nộp án phí ngày 26/01/2018.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/4/2022 chuyển tạm giam từ ngày 07/4/2022 đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Hùng C, sinh năm 1976.

2. Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1994.

3. Anh Nguyễn Thế Hn, sinh năm 1962 anh H, ông Hn, anh C vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Anh T là đối tượng thường xuyên sử dụng chất ma túy. Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 03/4/2022 Lê Anh T đi bộ ra khu vực nhà hàng 559 thuộc địa phận phường Bình Hàn, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương mục đích mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. T gặp một người phụ nữ (không rõ tên tuổi, địa chỉ) và mua của 01 (một) gói ma túy Heroine với số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau đó T mang về nhà và chia nhỏ thành 12 (mười hai) gói ma túy nhỏ để bán với số tiền 200.000 đồng/gói. Trong khoảng thời gian từ chiều ngày 03/4/2022 đến trưa ngày 04/4/2022 T đã sử dụng 09 (chín) gói ma túy Heroine.

Đến khoảng 15 giờ 10 phút ngày 04/4/2022 T đang ở nhà thì có Trần Hùng C đến hỏi mua của T một gói ma túy Heroine với số tiền 200.000đ, T đồng ý và bán cho C. Cùng lúc này Nguyễn Viết L cũng đến và hỏi mua một gói ma túy của T. T đưa cho L 01 gói ma túy và L đưa cho T số tiền 200.000 đồng thì bị Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Dương trong quá trình làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang T đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho L và C. Thu giữ của C 01 (một) gói giấy bạc màu trắng kích thước khoảng (0,5x1)cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng; thu giữ của L 01 (một) gói giấy bạc màu trắng kích thước khoảng (0,5x1)cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. C và L đều khai nhận đó là các gói ma túy Heroine vừa mua của Lê Anh T để sử dụng. Thu giữ của Lê Anh T số tiền 400.000 đồng, T khai nhận đó là số tiền vừa bán ma túy cho L và C. Quá trình bắt quả tang có sự chứng kiến của anh Nguyễn Xuân H và ông Nguyễn Thế Hn.

Cùng ngày 04/4/2022 trong khi tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T, T đã tự khai thu giữ tại vị trí trên đầu giường trong phòng ngủ của T 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, T khai nhận đó là gói ma túy Heroine cất giấu để sử dụng và 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa, 01 ống hút bằng nhựa, 01 cóng thủy tinh và 01 bật lửa ga.

Tại biên bản xét nghiệm nước tiểu hồi ngày 04/4/2022 tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hải Dương xác định: Lê Anh T, Trần Hùng C, Nguyễn Viết L dương tính với chất ma túy, loại Heroine.

Tại Kết luận giám định số 316/KLGĐ- PC09 ngày 07/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:

+ Chất bột dạng cục màu trắng trong gói giấy bạc màu trắng được niêm phong trong phong bì thu giữ của Trần Hùng C (kí hiệu M1) gửi đến giám định khối lượng là: 0,039 gam loại Heroine;

+ Chất bột dạng cục màu trắng trong gói giấy bạc màu trắng được niêm phong trong phong bì thu giữ của Nguyễn Viết L (kí hiệu M2) gửi đến giám định khối lượng là: 0,036 gam là ma túy, loại Heroine;

+ Chất bột dạng cục màu trắng trong gói giấy bạc màu trắng được niêm phong trong phong bì thu giữ của Lê Anh T (kí hiệu M4) gửi đến giám định khối lượng là: 0,158 gam là ma túy, loại Heroine;

Tại Kết luận giám định số 64/KLGĐ- PC09 ngày 25/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:

- 01 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng, số seri là WY 21961452 là tiền thật.

- 02 tờ tiền polyme mệnh giá 100.000 đồng, số seri lần lượt là NH 17372534 và QZ 12184528 là tiền thật.

Bản cáo trạng số 100/CT-VKSTPHD ngày 23/6/2022,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Lê Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 BLHS và tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Anh T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38; khoản 1 Điều 55 BLHS.

Xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Tổng hợp chung hai tội buộc bị cáo Lê Anh T phải chấp hành chung là 08 năm 03 tháng tù đến 08 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 04/4/2022.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 0,128g Heroine; 01 túi nilon màu trắng; 01 mảnh giấy mầu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M4; 02 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M1; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M2 được niêm phong trong 03 phong bì niêm phong số 316/KLGĐ-PC09 Công an tỉnh Hải Dương;

- 01 chai nhựa, 01 ống hút bằng nhựa, 01 coong thủy tinh và 01 bật lửa ga;

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng (bốn trăm ngàn đồng).

- Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, phù hợp lời khai của bị cáo, người làm chứng, Kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang. Hội đồng xét nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1] Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 04/04/2022 tại khu vực trước cửa số nhà 8/50 Lê Hồng Phong, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Lê Anh T có hành vi bán trái phép 0,039 gam Heroine cho Trần Hùng C và 0,036 gam Heroine cho Nguyễn Viết L đồng thời cất giấu trái phép chất ma túy tại giường nằm trong phòng ngủ của Tuấn 0,158 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo thực hiện hành vi lỗi cố ý biết việc làm của mình là sai vi phạm pháp luật. Bị cáo bán trái phép chất ma túy Heroin cho Trần Hùng C và Nguyễn Viết L vào ngày 04/4/2022 nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung là" Đối với hai người” theo điểm c khoản 2 Điều 251 BLHS và bị cáo cất giấu trái phép 01 gói chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi trên đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 BLHS, nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo với các tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an ninh xã hội. Việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc đối với những đối tượng mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức, sức khỏe con người. Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc và bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội Trộm cắp tài sản, tội Đánh bạc, nhưng khi chấp hành xong hình phạt tù ra trại không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại phạm tội tiếp cùng loại tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy cần có mức án nghiêm đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo tự khai để 01 gói ma túy trong phòng ngủ của bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Đối với lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy: 0,128g Heroine;

Đối với 01 túi nilon màu trắng; 01 mảnh giấy mầu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M4; 02 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M1; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M2 được niêm phong trong 03 phong bì ký hiệu T1, T2, T3 đều có số 316/KLGĐ-PC09; 01 chai nhựa, 01 ống hút bằng nhựa, 01 cóng thủy tinh và 01 bật lửa ga những vật chứng đó không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với số tiền 400.000đ thu giữ của bị cáo là tiền do bị cáo bán trái phép chất ma túy cho C, L mà có nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng.

[8] Không làm rõ được người phụ nữ bán trái phép chất ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý là phù hợp pháp luật.

- Đối với Trần Hùng C có hành vi cất giấu ma túy để sử dụng nhưng C chưa có tiền án, tiền sự về các hành vi liên quan đến ma túy nên chưa cấu thành tội phạm Công an thành phố Hải Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp pháp luật.

- Kết quả điều tra xác định không có người tên Nguyễn Viết L ở địa chỉ như trên nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 38; điểm b, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” và tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Lê Anh T 15 (mười lăm) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 07 (bẩy) năm 03 (ba) tháng tù tội về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 04/4/2022.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,128g Heroine; 01 mảnh giấy mầu trắng; 01 túi nilon màu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M4; 02 mảnh giấy bạc màu trắng; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M1; 01 vỏ phong bì niêm phong ký hiệu M2 được niêm phong trong 03 phong bì đều có số 316/KLGĐ-PC09;

01 bộ dụng cụ gồm: 01 chai nhựa, 01 ống hút bằng nhựa, 01 cóng thủy tinh và 01 bật lửa ga;

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng (bốn trăm ngàn đồng) (Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 01/7/2022).

- Án phí: Bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Lê Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma tuý số 102/2022/HS-ST

Số hiệu:102/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về