Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn L (tên gọi khác: không), sinh ngày: 16/4/1987, tại tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản X 1, xã B, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn B, sinh năm: 1954 và bà Lò Thị Đ, sinh năm: 1956; có vợ là Lò Thị T, sinh năm 1993; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/02/2022, tạm giam từ ngày 13/02/2022 cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn L: Bà Nguyễn Thị P, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 06/02/2022 Quàng Văn L nhận được điện thoại của Quàng Văn H, trú tại: Bản P, xã X, huyện M, tỉnh Điện Biên là người quen từ trước, đặt vấn đề có 01 bánh Heroine mua với giá 100 triệu đồng/01 bánh và 05 túi Methamphetamine mua với giá 02 triệu đồng/01 túi cần mang xuống Thái Nguyên để bán với giá đã thỏa thuận là 150 triệu đồng/01 bánh Heroine và 03 triệu đồng/01 túi Methamphetamine. H bảo L vận chuyển số ma túy trên đến ngã tư P, Thái Nguyên sẽ có người đến gặp và mua số ma túy đó, H hứa sau khi bán được ma túy sẽ chia đôi tiền lãi cho L, L đã đồng ý.

Khoảng hơn 16 giờ ngày 09/02/2022, H đi xe máy đến nhà L và đưa cho L 01 bánh Heroine và 05 túi Methamphetamine. L mang cất giấu số ma túy trên vào trong chiếc chăn ở góc phòng ngủ. Khoảng 18 giờ ngày 10/02/2022, L lấy ma túy ra rồi dùng băng dính màu đen quấn kín bánh Heroine và quấn 05 túi Methamphetamine thành 01 gói hình vuông, sau đó L cất giấu bánh Heroine vào túi áo ngực bên trái chiếc áo khoác đang mặc trên người; còn 05 túi Methamphetamine được ốp vào đùi bên trái bằng băng dính màu đen, rồi mặc quần dài màu đen bên ngoài che kín lại. L đi bộ ra chợ B và đón xe khách biển kiểm soát 29F-013.18 chạy tuyến Điện Biên - Bắc Ninh - Thái Nguyên của nhà xe C nằm tại giường số 12 của tầng 2. Khoảng 20 giờ cùng ngày khi xe khách đi đến khu vực Km 377+300 quốc lộ 6 thuộc địa phận bản L, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên thì bị Tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Điện Biên kiểm tra hành khách và hành lý mang theo trên xe khách. Tổ công tác phát hiện thu giữ bên trong túi ngực bên trái của L đang mặc có 01 bánh Heroine có khối lượng 354,2 gam và thu giữ tại đùi trái của L 05 túi Methamphetamine có tổng khối lượng 94,63 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 291/KL-PC09 ngày 18/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Quàng Văn L gồm: 01 (một) bánh chất bột màu trắng có khối lượng 354,2 gam và 94,63 gam các viên nén màu hồng.

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn L gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

- 05 (năm) mẫu các viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn L gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số: 28/CT-VKS-P1 ngày 11/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố Quàng Văn L để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là: BLHS).

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là: HĐXX):

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn L phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Quàng Văn L 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là: BLTTHS) xử lý vật chứng như sau:

+ Tịch thu và tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau khi giám định gồm: 352,97 gam Heroine và 92,38 gam Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo Quàng Văn L.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã cũ.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, miễn án phí sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn L.

Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn L không có ý kiến tranh luận gì về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và điều kiện hoàn cảnh, nhận thức của bị cáo để xét xử bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt; không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo và miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không khiếu nại gì đối với quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Quàng Văn L đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể: Vào hồi 20 giờ ngày 10/02/2022 bị cáo Quàng Văn L đã vận chuyển 01 bánh Heroine có khối lượng 354,2 gam và 05 túi Methamphetamine có khối lượng 94,63 gam xuống ngã tư P, tỉnh Thái Nguyên trên chuyến xe khách biển kiểm soát 29F-013.18 của nhà xe C đi tuyến Điện Biên - Bắc Ninh - Thái Nguyên để bán kiếm lời. Sau khi đến địa phận bản L, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên tại Km 377+300 quốc lộ 6 thì bị Tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Điện Biên đang làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Tổng khối lượng 02 chất ma túy thu giữ của Quàng Văn L là 448,83 gam.

Hành vi phạm tội của bị cáo L đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, đồng thời, còn xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện M nói riêng, tỉnh Điện Biên nói chung. Bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự do lỗi của bị cáo gây ra.

Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 BLHS như kết luận của Kiểm sát viên, của người bào chữa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo tuy chỉ mang tính chất giản đơn nhưng rất nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ma túy nói chung và Heroine, Methamphetamine nói riêng là một loại độc tố, nó gây hại đến sức khỏe con người. Mặt khác, ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác như cướp của, giết người, trộm cắp tài sản.... và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra căn bệnh thế kỷ AIDS, gây ảnh hưởng xấu đến mọi mặt trong đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật đã nghiêm cấm mọi hành vi liên quan đến việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc theo đúng quy định của pháp luật. Bị cáo luôn nhận thức được việc làm của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy chỉ vì siêu lợi nhuận từ ma túy đem lại. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình nông dân thuần túy, được bố mẹ nuôi dưỡng học hết lớp 9/12 phổ thông thì ở nhà lao động sản xuất. Năm 2010, bị cáo kết hôn với chị Lò Thị T và có 02 người con. Ngày 10/02/2022, bị Công an tỉnh bắt quả tang về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị kết án về tội danh nào khác, chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo cũng chưa được hưởng lợi gì việc mua bán trái phép chất ma túy. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 BLHS.

Để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, HĐXX quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo sau này sống có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....”. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo thu nhập chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện kinh tế gia đình hết sức khó khăn, đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa tại phiên tòa là có căn cứ. Do đó, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Tại phiên tòa sơ thẩm, đề nghị của Kiểm sát viên và lời bào chữa của Người bào chữa cho bị cáo về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo Quàng Văn L là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục các quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần xử lý vật chứng của vụ án như sau:

- Đối với vật chứng là ma túy, sau khi trích mẫu gửi giám định, còn lại 352,97 gam Heroine và 92,38 gam Methamphetamine, đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã cũ, bị cáo Quàng Văn L đã sử dụng làm phương tiện liên lạc, trao đổi để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Lẽ ra, bị cáo Quàng Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Các vấn đề khác: Theo lời khai của bị cáo, Quàng Văn H là người đưa ma túy cho bị cáo để đi bán, qua điều tra Quàng Văn H không có mặt ở địa phương, chưa đủ căn cứ xác định Quàng Văn H có liên quan đến vụ án. Do đó, HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn L (tên gọi khác: không) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Văn L (tên gọi khác: không) 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 11/02/2022).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 352,97 gam Heroine và 92,38 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau khi giám định.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã cũ.

(Theo Biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2022 giữa Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn L.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/6/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về