Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Nhà văn hóa Ủy ban nhân dân xã Hồng Phong, huyện An Dương, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2022/TLST- HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1991 tại Hải Phòng. ĐKHKTT: D, xã T, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị D; vợ Nông Thị Phương L; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 04/10/2021, tạm giam ngày 13/10/2021; có mặt.

Người làm chứng: Ông Giang Thế H, Vũ Văn T, Lê Thị G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ ngày 04/10/2021 tổ công tác Công an huyện An Dương kết hợp với Công an xã H tiến hành làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực đường liên xã thuộc thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng phát hiện Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Thu giữ tại túi quần bên trái đang mặc của Tưởng 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 05 gói giấy màu trắng kích thước (01 x 02)cm bên trong mỗi gói chứa chất bột màu trắng, theo Tưởng khai là ma túy mang đi để bán cho người khác và 01 xe máy điện màu đỏ biển số 15MD6-31782.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp nhà ở của T tại thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng lực lượng công an thu giữ: 01 thớt nhựa màu trắng hình tròn đường kính 25cm, trên mặt thớt có 01 túi nilon kích thước (04 x 04)cm bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 dao tem, 01 kéo, 04 mảnh giấy màu trắng (05 x 05)cm và trên nóc tủ lạnh 01 điện thoại oppo màu đen đã qua sử dụng.

Bản Kết luận giám định số 562/KLGĐ-MT ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của mẫu 01QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,22gam, là loại Heroin. Chất bột màu trắng của mẫu 01KX gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,43 gam, là loại Heroin.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 04/10/2021, T đang ở nhà trọ tại thôn H, xã H, huyện An Dương, Hải Phòng thì nhận được điện thoại của Tống Văn T, sinh năm 1963, trú tại: Ng, xã A, huyện An Dương, Hải Phòng gọi vào số điện thoại 0383605803 của T để hỏi mua 05 gói ma túy heroin với giá 100.000 đồng/gói. T hẹn T 15 phút sau gặp ở khu vực chùa H để giao ma túy. Sau đó T điều khiển xe máy điện nhãn hiệu ESPERO màu đỏ đi giao ma túy. Trên đường đi Tưởng bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên. Ngoài ra, trước đó vào hồi 17 giờ ngày 02/10/2021 tại khu vực chùa H, xã H, huyện An Dương, Hải Phòng và 11 giờ ngày 03/10/2021 tại khu vực cầu H, xã H, huyện An Dương, Hải Phòng T đã hai lần bán ma túy cho T. Số ma túy trên T mua của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, Quận Lê Chân, Hải Phòng với giá 1.600.000đồng vào chiều ngày 02/10/2021 để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Ngoài T, T còn bán lại cho một số người khác Tưởng không biết họ tên, địa chỉ.

Tại phiên tòa Nguyễn Văn T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy ngày 02/10/2021 bị cáo mua ma túy của một người phụ nữ không quen biết về chia nhỏ thành từng gói để bán cho những người nghiện khác kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Ngày 04/10/2021, khi bị cáo mang 05 gói ma túy đến khu vực chùa H, xã H bán cho Tống Văn T thì bị Công an bắt quả tang. Trước đó vào ngày 02/10/2021 và ngày 03/10/2012, bị cáo đã bán hai lần ma túy cho Tống Văn T như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Ngoài bán ma túy cho T bị cáo còn bán ma túy cho một số đối tượng khác nhưng bị cáo không biết, tên tuổi, địa chỉ, việc điều tra, truy tố, xét xử bị cáo là đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Công bố lời khai của Tống Văn T là người mua ma túy của Tưởng có nội dung như bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra và phiên tòa.

Bản Cáo trạng số 49/CT-VKS-AD ngày 25/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng trình bày căn cứ buộc tội, phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 8 năm đến 8 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung là phạt tiền bị cáo từ 5.000.000đồng đến 10.000.000đồng.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín các mép, bên trong có chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì đựng mẫu vật gửi giám định, trên có dấu niêm phong của Cơ quan giám định số 562/MT/PC09; 04 mảnh giấy mầu trắng, kích thước 5x5cm, 01 dao tem, 01 thớt nhựa mầu trắng hình tròn đường kính 25cm, 01 kéo.

Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lời bất chính mà có 200.000đồng vào ngân sách Nhà nước. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, mầu đen đã qua sử dụng, 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO BKS: 15MĐ6- 31782.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của Tống Văn T là người mua 02 lần ma túy của bị cáo vào các ngày 02/10/2021 và ngày 03/10/2021, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do cơ quan điều tra lập vào hồi 13 giờ 40 phút ngày 04/10/2021 tại thôn H, xã H, huyện An Dương, Hải Phòng; biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, phù hợp với bản Kết luận giám định số 562/KLGĐ-MT ngày 08/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử, xét thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận sau khi chia nhỏ số ma túy mua được bị cáo đã bán cho Tống Văn T vào hai ngày 02/10/2021 và ngày 03/10/2021 mỗi ngày 01 gói ma túy với giá 100.000đồng/1gói. Đến ngày 04/10/2021, khi bị cáo mang 05 gói ma túy đến chùa H để giao cho Tỉnh thì bị cơ quan Công an bắt quả tang. Tại kết luận giám định khối lượng chất ma túy thu giữ được của bị cáo là 2,65 gam loại Heroin, hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm tội 02 lần trở lên. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi nêu trên, bị cáo có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, do vậy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người và phát sinh các tội phạm khác. Về nhân thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nghiện chất ma tuý nên xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về các vấn đề khác:

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, trước khi bị bắt bị cáo không có việc làm ổn định nên xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là có cơ sở.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ được một lượng ma túy, sau khi giám định số ma túy còn lại được để trong 01 phong bì thư dán kín các mép bên trong có chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì đựng mẫu vật gửi giám định trên có dấu niêm phong của cơ quan giám định số: 562MT/PC09, 01 thớt nhựa màu trắng hình tròn, đường kính 25cm, 01 dao tem, 01 kéo, 04 mảnh giấy màu trắng kích thước 5x5cm, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO BKS:

15MĐ6-31782. Xét số ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, 01 thớt nhựa, 01 dao tem, 01 kéo, 04 mảnh giấy mầu trắng không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO BKS: 15MĐ6-31782 là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 200.000đồng thu lời bất chính mà có vào ngân sách Nhà nước là số tiền bị cáo bán ma túy cho Tống Văn Tỉnh vào hai ngày 02,03/10/2021.

[9] Trong vụ án này, còn có hành vi của Tống Văn T là đối tượng nghiện ma túy mua ma túy của T về để sử dụng do bản thân. Những lần mua ma túy ngày 02/10/2021, 03/10/2021 T đã sử dụng hết không thu hồi được và ngày 04/10/2021 Tỉnh chưa thực hiện được việc mua ma túy của T nên không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với T. Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T hiện chưa xác định được lai lịch nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 04/10/2021.

Phạt bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 5.000.000đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Buộc bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đồng thu lời bất chính mà có.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín các mép, bên trong có chứa số ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì đựng mẫu vật gửi giám định, trên có dấu niêm phong của cơ quan giám định số 562/MT/PC09, 01 dao tem, 01 kéo, 04 mảnh giấy màu trắng kích thước 5x5cm.

- Tịch thu thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO BKS: 15MĐ6- 31782.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/5/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về