Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/9/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 37/2022/TLST-HS ngày 18/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST-HS ngày 31/8/2022 đối với bị cáo: Hàng A S (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 14/7/1987 tại huyện TĐ, tỉnh Lai Châu; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản CV 8, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 0/12 Tiền án: Ngày 15/5/2020 bị Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lai Châu xử phạt 12 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã chấp hành xong, chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Ngày 29/6/2011 bị Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lai Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã chấp hành xong, được xóa án tích).

Con ông Hàng A D (đã chết) và bà Vàng Thị D1, sinh năm 1964. Bị cáo có vợ là Sùng Thị C, sinh năm 1987 và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2022. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam tỉnh Lào Cai. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hàng A S: Bà Liệu Thị N – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Vàng A Ch, địa chỉ: Bản CV 8, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

+ Chị Sùng Thị Ch1, địa chỉ: Bản CV 8, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Châu A G, địa chỉ: Thôn KSH, xã PC, huyện BX, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

- Người phiên dịch: Bà Giàng Thị P, địa chỉ: Số 007 phố TT, phường CL, thành phố LC, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước ngày bị bắt khoảng 05 ngày, Hàng A S đang làm nương của gia đình ở gần nhà thì có một người đàn ông đến tự giới thiệu tên là Ng nhà ở tỉnh Lào Cai. Sau đó S và người đàn ông tên Ng nói chuyện và lấy số điện thoại của nhau rồi Ng đi về. Đến ngày 16/05/2022 S đang ở nhà thì người đàn ông tên Ng đến nói muốn thuê S mang ma tuý đi bán, xong việc sẽ trả tiền công, Hàng A S đồng ý và cùng bàn bạc việc bán ma túy với Ng. Đến chiều ngày 19/05/2022 như đã bàn bạc thống nhất từ trước Hàng A S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25B1 – 837.27 từ xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu đến khu vực thôn KSH, xã PC, huyện BX, tỉnh Lào Cai để gặp Ng. Khi gặp nhau Ng bảo S mang 2 bánh ma tuý đi bán với giá 260 triệu đồng, khi nào bán xong sẽ trả 15 triệu đồng tiền công. Nói xong Ng đưa cho Hàng A S một chiếc khăn mặt màu cam bên trong chứa 2 bánh ma tuý và bảo mang giao cho người mua ma tuý đang đứng đợi ở gần đó. Sau khi nhận hai bánh ma túy, Hàng A S cất giấu vào trong áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi đến điểm hẹn để giao cho người mua, còn Ng đi theo sau để khi nào S giao ma túy xong và người mua ma túy trả tiền thì Ng sẽ đến lấy tiền. Đến nơi trong lúc đang đứng chờ người mua ma túy đến nhận thì Hàng A S bị tổ công tác Công an huyện BX phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật, còn người đàn ông tên Ng đã bỏ chạy Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định hồi 13 giờ 30 phút ngày 20/5/2022 tại Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai xác định số vật chứng thu giữ của Hàng A S ngày 19/5/2022 tại thôn KSH, xã PC, huyện BX, tỉnh Lào Cai, gửi giám định gồm: 02 bánh chất bột khô màu trắng hình hộp chữ nhật có tổng khối lượng là 706,04 gam, trích mẫu 13,8 gam để tiến hành giám định, còn 692,24 gam hoàn lại Cơ quan trưng cầu.

Tại bản kết luận giám định số: 130/KL-GĐMT ngày 22/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Số vật chứng thu giữ khi bắt quả tang đối với Hàng A S ngày 19/5/2022 tại xã PC, huyện BX gồm: 02 bánh chất bột khô màu trắng hình hộp chữ nhật có tổng khối lượng là 706,04 gam gửi giám định đều là loại chất ma túy Heroine.

Cáo trạng số 39/CT-VKS-P1 ngày 16/8/2022 của VKSND tỉnh Lào Cai đã truy tố bị cáo Hàng A S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hàng A S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trong bản cáo trạng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hàng A S phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4, 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hàng A S tù chung thân. Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5-10 triệu đồng nộp ngân sách nhà nước.

Xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Hàng A S trình bày quan điểm bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hàng A S mức án 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị HĐXX trả lại cho chị Sùng Thị C số tiền 6.580.000 đồng vì là tài sản chung của hai vợ chồng bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Hàng A S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng chiều ngày 19/5/2022, Hàng A S nhận lời một người đàn ông tên Ng (không rõ địa chỉ, lý lịch cụ thể) đi bán 02 bánh Heroine (tương đương 706,04 gam) với giá 260.000.000 đồng, để nhận tiền công 15.000.000 đồng. Sau khi nhận ma túy từ Ng, S cất giấu vào trong áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi đến điểm hẹn để giao cho người mua, chưa kịp bán thì bị Công an huyện BX phát hiện và bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bản cáo trạng số 39/CT-VKS-P1 ngày 16/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Hàng A S về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung là “Heroine có khối lượng từ 100 gam trở lên” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm vào chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật để phòng ngừa tội phạm chung.

Xét thấy bị cáo Hàng A S trước khi phạm tội có nhân thân xấu. Ngày 15/5/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lai Châu xử phạt 12 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong ngày 09/5/2021, chưa được xóa án tích thì đến ngày 19/5/2022 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử nhận định, khối lượng 706,04 gam heroine thu giữ của bị cáo là lớn, tuy nhiên xét thấy không cần thiết phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử phạt bị cáo mức án tù chung thân cũng đủ sức giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần phạt bổ sung bị cáo Hàng A S số tiền 6.380.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người đàn ông tên “Ng”: Quá trình điều tra, bị cáo Hàng Seo S không biết rõ cụ thể họ, tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông tên “Ng” ở đâu nên cơ quan điều tra không chứng minh làm rõ được, vì vậy không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với người mua ma túy: Theo lời khai của S việc trao đổi, liên lạc với người mua ma túy là do người đàn ông tên Ng trực tiếp liên hệ và trao đổi giá cả với người mua, còn S chỉ làm theo sự chỉ đạo của người đàn ông tên Ng, bản thân S không biết người mua ma túy là ai và chưa gặp bao giờ. Cơ quan điều tra không chứng minh làm rõ được, vì vậy không đề cập xử lý trong vụ án là phù hợp.

Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Hàng A S đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo mức án 20 năm tù là không có căn cứ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên không chấp nhận. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4] Về vật chứng:

- 692,24 gam ma túy Heroine còn lại sau trích mẫu giám định, 01 khăn mặt màu cam: Đây là vật nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE RSX, mang biển kiểm soát 25B1- 837.27, số khung: RLHJA3845MY133760, số máy: JA52E0297432, xe đã cũ, không kiểm tra chi tiết bên trong: Đây tài sản của anh Vàng A Chái, em rể bị cáo. Anh Chái không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe để làm phương tiện vận chuyển ma túy, nên cần trả lại chiếc xe cho anh Vàng A Chái.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 008999 mang tên Sùng Thị Chà: Đây là tài sản của chị Sùng Thị Chà, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho chị Sùng Thị Chà.

- 01 ví giả da màu nâu, 01chứng minh nhân dân số 045096818, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 029301, 01 giấy phép lái xe số 120054001348 đều mang tên Hàng A S: Đây là các tài sản và giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo - Số tiền 6.580.000 đồng: Đây là tài sản chung của bị cáo và vợ bị cáo là chị Sùng Thị Chà, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Do bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hàng A S tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 20/5/2022.

Phạt bổ sung bị cáo Hàng A S 6.380.000 (sáu triệu ba trăm tám mươi nghìn) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai được niêm phong dán kín. Tại mép dán của bì niêm phong có chữ ký của những người tham gia, hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai được dán phủ bằng lớp băng dính trong suốt. Trên một mặt của bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Hàng A S tại thôn Kin Sáng Hồ, xã Pa Cheo, huyện BX, tỉnh Lào Cai ngày 19/5/2022”. Niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định, bên trong chứa 692,24 gam chất ma túy Heroine sau trích mẫu giám định.

- 01 (một) khăn mặt màu cam đã qua sử dụng kích thước khoảng 35x72,5 cm, thu giữ của Hàng A S.

* Trả lại cho anh Vàng A Chái: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE RSX, mang biển kiểm soát 25B1-837.27, số khung: RLHJA3845MY133760, số máy: JA52E0297432, xe đã cũ, không kiểm tra chi tiết bên trong, thu giữ khi bắt quả tang Hàng A S.

* Trả lại cho chị Sùng Thị Chà: 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 008999 mang tên Sùng Thị Chà, thu giữ khi bắt quả tang Hàng A S.

* Trả lại cho bị cáo Hàng A S: 01 (một) ví giả da màu nâu đã qua sử dụng;

01 (một) chứng minh nhân dân số 045096818, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 029301, 01 (một) giấy phép lái xe số 120054001348 đều mang tên Hàng A S.

* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án của bị cáo Hàng A S số tiền 6.580.000 (sáu triệu năm trăm tám mươi nghìn) đồng hiện đang được gửi tại Kho bạc nhà nước tỉnh Lào Cai, theo biên bản giao nhận tài sản số 24/2022/BBBG-KBLC ngày 05/7/2022, được niêm phong trong 01 (một) bì thư do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai phát hành được niêm phong dán kín. Tại các mép dán của bì niêm phong này có chữ ký của các bên tham gia niêm phong và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Mặt còn lại có ghi “Vật chứng sau giám định vụ Hàng A S có hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày 19/5/2022 tại thôn KSH, xã PC, huyện BX, tỉnh Lào Cai (6.580.000 VNĐ)”. Niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định.

(Các vật chứng được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng số 51, ngày 17/8/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Hàng A S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự ”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về