Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 7 năm 2022 tại tại điểm cầu trung tâm Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Toà án nhân dân huyện Yên Dũng xét xử trực tuyến, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2022/HSST ngày 04 tháng 7 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HS ngày06tháng 7năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Văn D, sinh năm 1991; tại tỉnh Sơn La; tên gọi khác: không;nơi ĐKHKTT: Bản N, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La. Chỗ ở: thôn N, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cà Văn Q, sinh năm 1968 và bàLường Thị L, sinh năm 1968; Vợ; Vi Thị H, sinh năm 1995 có 02 con: con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú, tạm giữ, tạm giam từ ngày16/5/2022 đến nay. Hiện đang giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang, (có mặt).

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn D, sinh năm 1995, nơi ĐKHKTT: Bản M, xã H, huyện M, tỉnh S. Chỗ ở: thôn N, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang,(vắng mặt).

+ Người chứng kiến: Bà Lê Thị L, sinh năm 1974, địa chỉ: thôn N, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diên biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cà Văn D, sinh năm 1991 ở Bản N, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La là công nhân của Công ty SUNNY Việt Nam khu Công nghiệp Song Khê- Nội Hoàng và Diêm đến thuê trọ tại thôn N, xã N, Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Do bị nghiện ma tuý từ nhiều năm, và biết trên địa bàn xã Nội Hoàng có khu Công Nghiệp có nhiều công nhân từ nhiều địa phương đến làm công nhân và lao động tự do, trong đó có một số đối tượng nghiện ma tuý có nhu cầu sử dụng, nên Diêm nảy sinh ý định đi tìm mua ma tuý đem về bán kiếm lời.

Biết ở khu vực cổng làng M, thuộc tổ dân phố M, thị trấn N, huyện Vcó ma tuý bán, nên khoảng 17 giờ ngày 15/5/2022, Diêm từ nhà ra đường rồi thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi từ thôn N, xã N, huyện Yên Dũng đến khu vực cổng làng M, thuộc tổ dân phố M, thị trấn N, huyện Việt Yên tìm mua ma tuý thì gặp một người phụ nữ, D không quen biết đứng ở bờ đường. Biết người phụ nữ này có ma tuý bán, D đi đến và bảo bán cho D 200.000đồng ma tuý và đưa tiền cho người phụ nữ đó, người phụ nữ đó cầm tiền và đưa cho D 01 gói giấy màu trắng bên trong đựng chất cục bột màu trắng là ma tuý loại heroin. Diêm cầm gói ma tuý mua được đi về phòng trọ ở thôn N, xã N, huyện Yên Dũng. Khi về phòng trọ, D đem gói ma tuý vừa mua được ra chia thành 08 mảnh nhỏ, gói lại vào giấy trắng và cất dấu trong 01 chiếc túi, loại túi đựng áo mưa rồi treo lên tường phía trên bàn để bếp nấu ăn, mục đích để sử dụng và bán cho những người có nhu cầu. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Quàng Văn D, sinh năm 1995 ở Bản M, xã H, huyện M, tỉnh S, hiện đang thuê trọ tại thôn N, xã N, huyện Yên Dũng đến phòng trọ của D bảo D bán cho 100.000đồng ma tuý. D đồng ý cầm tiền rồi vào trong lấy một gói ma tuý đem ra đưa cho D. D cầm gói ma tuý mua được của D đem ra phía sau phòng trọ của D sử dụng hết rồi đi về.

Do có hành vi liên quan đến một vụ án khác, nên sáng ngày 16/5/2022, D được mời đến Công an xã N, Yên Dũng để giải quyết, qua xét nghiệm nhanh cho kết quả, D dương tích với chất ma tuý. Xét hỏi nhanh, D khai tối ngày 15/5/2022 có mua ma tuý tại phòng trọ của D để sử dụng.

Tiến hành triệu tập D đến công an xã N, D khai nhận đã bán ma tuý cho D tối ngày 15/5/2022 và khai còn cất dấu ma tuý ở phòng trọ. Cùng ngày, cơ quan điều tra đã thu giữ tại phòng trọ của Cà Văn D: 01 gói giấy màu trắng, bên trong đựng chất cục bột màu trắng, nghi là ma tuý được niêm phong trong phong bì ký hiệu “ĐT; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 túi ni lon nhựa màu xanh cùng số tiền 100.000đồng.

Ngày 16/5/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng ra quyết định trưng cầu giám định gửi đến Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang để giám định các chất thu giữ được tại phòng trọ Diêm.

Tại bản Kết luận giám định số 828/KL-KTHS ngày 18/5/2022, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “ĐT đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,095 gam, loại Heroine”.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho D, người đàn ông chở D đi mua ma tuý, do D khai không biết tên tuổi, địa chỉ, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Quàng Văn D đã bị Công an huyện Yên Dũng xử lý hành chính.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO bị thu giữ, D khai không liên quan đến vụ án; số tiền thu giữ 100.000đồng, D khai là tiền bán ma tuý.

Tang vật của vụ án gồm: 01 phong bì thư đã được niêm phong lại bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký của Giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 túi ni lon nhựa màu xanh và 100.000đ được chuyển đến kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Cà Văn D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

- Cáo trạng số 42/CT - VKSYD ngày 01/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng truy tố bị cáo Cà Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu.

-Người chứng kiến có mặt tại phiên tòa bà Lê Thị L trình bày: Gia đình bà có mấy gian nhà trọ, bị cáo Cà Văn D có thuê 01 phòng trọ của gia đình bà từ ngày 16/9/2022. Ngày 16/5/2022, bà có chứng kiến Công an xã Nội Hoàng khám xét phòng trọ bị cáo D thuê, thu giữ ma túy như bị cáo D trình bày, ngoài ra Công an không thu giữ tài sản gì.

- Hội đồng xét xử công bố lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quanvắng mặt, bị cáo không có ý kiến gì.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Cà Văn D từ 24 tháng đến 30 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời gian tù tính từ ngày 16/5/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đã niêm phong lại bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 100.000 đồng; Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon nhựa màu xanh 3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về án phí: Áp dụngđiểm đ Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:Miễn án phí hình sự cho bị Bị cáo không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiển sát về tội danh cũng như hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Dũng và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng như Điều tra viên và Kiểm sát viên thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2]. Xét về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội củabị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 15/5/2022, Cà Văn D có hành vi đi đến khu vực cổng làng M, thuộc tổ dân phố M, thị trấn N, huyện Việt Yên để tìm và mua được một gói ma túy loại Heroin trị giá 200.000 đồng đem về phòng trọ ở thôn N, N, Yên Dũng cất dấu, mục đích để bán kiếm lời. Sau khi chia nhỏ số ma túy Heroin thành 08 gói nhỏ. Hồi 22 giờ cùng ngày, Cà Văn D bán 01 gói ma tuý trị giá 100.000đồng cho Quàng Văn D, sinh năm 1995 ở Bản M, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La, hiện đang thuê trọ tại thôn N, xã N, huyện Yên Dũng để D sử dụng, số ma tuý còn lại có khối lượng 0,095 gam, loại Heroine, D cất dấu vào trong 01 chiếc túi, loại túi đựng áo mưa rối treo lên tường phía trên bàn để bếp nấu ăn mục đích để bán kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị thu giữ .Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì lợi ích cá nhân đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất biệt dược gây nghiện của Nhà nước và gây mất trật tự, an ninh xã hội. Từ tệ nạn ma túy làm nảy sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội.Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tại giai đoạn điều tra và trước phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã gây ra, sau khi hành vi bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú. Đây là tình tiết để xem xét giảm nhẹ hình phạt chobị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo phải không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[8]. Đối với người phụ nữ bán ma túy cho D, người đàn ông chở Diêm đi mua ma tuý, do D khai không biết tên tuổi, địa chỉ, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

[9]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Quàng Văn Dđã bị Công an huyện Yên Dũng xử lý hành chính, là phù hợp. [10]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 phong bì thư đã niêm phong lại bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký của Giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định, đây là vật cấm lưu hành, do vậycần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự - Đối với 01 túi nilon nhựa màu xanh, cần tịch thu tiêu hủy hủy là phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự - Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO không liên quan đến hành vi phạm tội, do vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 100.000 đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho Quàng Văn Dụng, do vậy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước là phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11]. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án là phù hợp với quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[12] Về án phí: Bị cáothuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khóa khăn, do vậy bị cáođược miễn án phí hình sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQD14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bởi các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự.Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

2. Hình phạt:

Xử phạt: Bị cáo Cà Văn D 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời gian tù tính từ ngày 16/5/2022.

3. Vật chứng của vụ án:

-Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư đã niêm phong lại bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký của Giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu giám định và 01 túi nilon nhựa màu xanh - Trả lại cho bị cáo Cà Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng (Vật chứng của vụ án được chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Dũng theo Quyết định chuyển vật chứng số27/QĐ-VKSYD ngày 01/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng).

4. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

5. Án phí: Bị cáo được miễn án phí HSST  

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về