Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2022.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Bùi Tấn Đ (Tên gọi khác là K), sinh ngày 25/4/2000; Nơi sinh: Đà Nẵng; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở hiện nay: phường V, quận T, TP Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Họ tên cha: Bùi Đức T (Sinh năm: 1966, còn sống). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T (Sinh năm: 1965, còn sống). Gia đình có 03 người con, bị cáo là con út.

Tiền án, tiền sự: Chưa; Nhân thân:

- Ngày 04/5/2016 bị TAND quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 15 tháng tại Quyết định số 36/2016/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 13/8/2017.

- Ngày 06/7/2018 bị UBND quận Hải Châu - TP Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác và mua, tàng trữ vũ khí thô sơ mà không có giấy phép theo Quyết định số 10028/QĐ-XPVPHC.

- Ngày 24/4/2019 bị TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng tại Quyết định số 40/2016/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 25/11/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/02/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn A, sinh ngày 29/01/2000; Nơi sinh: Đà Nẵng; Giới tính: Nam;

Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở hiện nay: phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Họ tên cha: Nguyễn T (Sinh năm: 1973, còn sống). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T (Sinh năm: 1978, còn sống). Gia đình có 03 người con, bị can là con đầu.

Tiền án: Chưa;

Tiền sự: Ngày 08/01/2022 bị Công an phường Vĩnh Trung xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định XPVPHC số 04/QĐ-XPHC.

Nhân thân: Ngày 06/7/2018 bị UBND quận Hải Châu - TP Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khẻo người khác theo Quyết định XPVPHC số 10032/QĐ-XPVPHC.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/02/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn T, sinh năm: 1973. Địa chỉ: phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 ngày 17/01/2022, Bùi Tấn Đ đang đi chơi cùng Nguyễn A ở khu vực đường Trần Cao Vân thì Đạt nhận được điện thoại của một người tên H (chưa xác định được nhân thân lai lịch) hỏi mua nửa hộp 5 “ke” ma tuý loại Ketamine. Lúc này, Đạt nói với A là có người hỏi mua nửa hộp 5 “ke”, A có biết chỗ nào bán không để Đ lấy bán lại cho họ thì A nói còn nửa hộp 5 “ke” mua trước đó 3 ngày của một người tên B (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để ở nhà. A nói sẽ đưa cho Đ bán số ma túy này và lấy 3.000.000 đồng. Đ gọi lại cho H là có ma tuý, giá nửa hộp 5 “ke” là 3.500.000 đồng thì H đồng ý và hẹn đến khu vực đường Nguyễn Công H thuộc phường H, quận C, TP Đà Nẵng để giao dịch. Sau đó, Nguyễn A điều khiển xe mô tô hiệu SH biển số 43C1-chở Đ về nhà thuê phường M, quận N để lấy ma tuý. Đến khoảng 19h30 cùng ngày, khi cả 02 đang đi đến điểm hẹn phường H, quận C, TP Đà Nẵng thì bị tổ tuần tra Công an phường H kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Qua kiểm tra, khám xét, Cơ quan Công an đã tạm giữ các tang vật như sau:

- 01 gói nilon kích thước khoảng (4,5x4) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong trong bì thư ký hiệu B1, có chữ ký của những người ký tên trong biên bản;

- 01 xe môtô hiệu Honda SH, biển số 43C1 -783.30;

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số: 0777562842;

- 01 Điện thoại di động hiệu Nokia không gắn sim.

Tại kết luận giám định số 100, ngày 26/01/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Chất rắn màu trắng dạng tinh thể niêm phong trong bì thư ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu là 1,29 gam. Hoàn lại toàn bộ vỏ bao gói và 1,12 gam mẫu B1.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKSCL ngày 01/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ truy tố các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Tấn Đ từ 3 đến 4 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn A từ 3 đến 4 năm tù.

Ngoài ra, còn đề cập đường lối xử lý về vật chứng và tiền án phí.

Bị cáo Bùi Tấn Đ nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình.

Bị cáo Nguyễn A nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn T trình bày, khi bị cáo A lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH, biển số 43C1 - sử dụng làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy thì ông không biết. Hiện Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ đã trao trả lại chiếc xe trên cho ông Nguyễn T và ông không có yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, nên HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Khi có một người tên H (chưa xác định được lai lịch) liên lạc với Bùi Tấn Đ hỏi mua ma túy loại Ketamine, Đạt nói với Nguyễn A, sau đó A và Đ về nhà A lấy ma túy có sẵn của A để cùng với Đ giao cho người mua. Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 17/01/2022 tại phường H, quận C, TP Đà Nẵng, Bùi Tấn Đ và Nguyễn A đang thực hiện hành vi bán trái phép 1,29 gam ma túy, loại Ketamine cho đối tượng tên H thì bị Công an phường H quận Cẩm Lệ bắt quả tang. Hội đồng xét xử xác định hành vi của các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo thì thấy:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đi ngược lại với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phòng chống và đẩy lùi tệ nạn ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện cao, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người và sự phát triển của nòi giống dân tộc, tiêu tốn về kinh tế. Đồng thời, ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội khác như HIV…; nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy nhằm phục vụ lợi ích nhu cầu cá nhân của bản thân. Đây là vụ án đồng phạm, tuy nhiên giữa các bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

Trong vụ án này, bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A đều thực hiện hành vi nguy hiểm như nhau. Đạt hỏi A để tìm nguồn ma túy bán cho người mua, bị cáo Anh có sẳn ma túy đồng ý bán để kiếm lời. Cả hai bị cáo đã cùng đến địa điểm giao dịch để bán ma túy.

Ngoài ra, bị cáo Đ có nhân thân xấu. Ngày 04/5/2016 bị TAND quận H , thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 15 tháng tại Quyết định số 36/2016/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 13/8/2017; Ngày 06/7/2018 bị UBND quận H - TP Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác và mua, tàng trữ vũ khí thô sơ mà không có giấy phép theo Quyết định số 10028/QĐ-XPVPHC; Ngày 24/4/2019 bị TAND quận T, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng tại Quyết định số 40/2016/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 25/11/2019.

Bị cáo A có nhân thân xấu bị UBND quận H - TP Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khẻo người khác theo Quyết định XPVPHC số 10032/QĐ-XPVPHC ngày 06/7/2018. Đồng thời bị cáo A có 01 tiền sự bị Công an phường V xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định XPVPHC số 04/QĐ-XPHC ngày 08/01/2022 nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, HĐXX xét thấy cần phải xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo. Đồng thời, cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và góp phần răn đe, đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[4] Tại phiên tòa, mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đề nghị áp dụng cho các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A là có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo như đã phân tích nêu trên, nên được HĐXX chấp nhận.

[5] Đối với đối tượng tên B và H là người bán ma túy cho A và người mua ma túy của Đ hiện chưa xác minh được nhân thân lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau là có cơ sở.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ vỏ bao gói và 1,12 gam mẫu B1 hoàn lại, là vật chứng vụ án, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số: 0777562842 là tài sản của Bùi Tấn Đ sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy, là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia không gắn sim là tài sản của Bùi Tấn Đ, Đ không sử dụng điện thoại này để liên lạc, mua bán ma túy cho người khác nên trả lại cho Bùi Tấn Đ.

- Đối với 01 xe môtô hiệu Honda SH, biển số 43C1 -783.30 qua xác minh là của ông Nguyễn T (Sinh năm: 1973, trú: quận T, Đà Nẵng, là cha ruột của Nguyễn A). Ngày 17/01/2022, Nguyễn A mượn xe để đi chơi với bạn, ông T không biết A dùng xe trên vào việc phạm tội. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại cho ông Nguyễn T là có cơ sở.

[7] Về án phí: Các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Bùi Tấn Đ 3 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2022.

1.2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: bị cáo Nguyễn A 3 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vỏ bao gói và 1,12 gam mẫu B1 hoàn lại.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số: 0777562842 của bị cáo Bùi Tấn Đ.

- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Nokia không gắn sim cho bị cáo Bùi Tấn Đ. Tuy nhiên, cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ theo Quyết định chuyển vật chứng vụ án số 30/QĐ- VKSCL ngày 01/6/2022, Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/6/2022)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Bùi Tấn Đ và Nguyễn A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về