Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm, thụ lý số 29/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn V, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 21/11/1990, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 4B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Ngọc C (đã chết); con bà Nguyễn Thị L; có vợ là Trần Thị L1, có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 61/2008/HSST ngày 30/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Tuấn V 5 năm tù, về tội “Cướp tài sản”.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Đức H, Văn phòng luật sư TH – Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên. (có mặt)

Người chứng kiến:

1. Anh Phan Văn N, sinh năm 1972, (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 3, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Hoàng Văn L2, sinh năm 1960. (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 4B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên.

3. Chị Trần Thị L1, sinh năm 1988. (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 4B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 ngày 09/3/2022, tại tổ dân phố Ư, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên, tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tuấn V sinh ngày 21 tháng 11 năm 1990, thường trú tại tổ 04B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên có hành vi tàng trữ trái phép trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các cục chất bột màu trắng, theo V khai nhận là chất ma túy Heroine (Niêm phong A). Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của V 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu trắng, bên trong gắn thẻ Sim số thuê bao 0868089535 và 0977864822; 01 xe ô tô biển số 22A – 069.60 và 01 giấy đăng ký xe; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Tuấn V và 400.000 đồng. Cùng ngày Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Tuấn V tại tổ 04B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện thu giữ 04 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng (Niêm phong K) và 01 cân điện tử vỏ màu đen nhãn hiệu POCKET SCALE. Tiến hành thủ tục mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng xác định: Số chất bột màu trắng trong niêm phong A có khối lượng là 18,68 gam, trích lấy mẫu vật là 1,44 gam (Niêm phong A1) làm mẫu gửi giám định; Số chất bột màu trắng trong niêm phong K có khối lượng là 15,73 gam, trích lấy mẫu vật là 1,39 gam chất bột (Niêm phong K1) làm mẫu vật trưng cầu giám định ma túy theo quy định.

Tại bản Kết luận Giám định số 473 ngày 17/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Tuấn V là chất ma túy; loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 18,68 gam; Mẫu các cục chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Tuấn V là chất ma túy; loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 15,73 gam.

Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội của bị cáo như sau: khoảng 08 giờ 10 phút ngày 09/3/2022, có người đàn ông tên X (không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ) đặt mua của V 01 gói ma túy Heroine với giá 12.500.000đ và hẹn nhau khoảng 10 giờ cùng ngày sẽ giao nhận ma túy tại tổ dân phố Ư, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; Sau đó V một mình đến khu vực ngã tư TX thuộc xóm TX 4, xã TT, thành phố PY, tỉnh Thái Nguyên mua được 02 túi ma túy Heroine hết 15.000.000đ của người tên T (không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ). Sau khi mua được ma túy V mang về nhà ở của mình và lấy 01 gói ma túy chia thành 04 gói đem cất giấu trong phòng trên tầng hai với mục đích để bán kiếm lời, gói ma túy còn lại V mang theo người; Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày ông Nguyễn Thanh H đi chiếc xe ô tô biển số 22A – 069.60 đến nhà V chơi thì V hỏi mượn xe của ông H nói dối là đi mua thức ăn, ông H tưởng là thật nên đã giao xe cho V mượn. Sau đó V điều khiển xe ô tô đi đến tổ dân phố Ư, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên để bán ma túy cho X nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan điều tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Đối với chiếc xe ô tô biển số 22A – 069.60 quá trình điều tra xác định là xe của ông Nguyễn Thanh H, khi cho mượn ông H không biết và không liên quan việc phạm tội của Nguyễn Tuấn V nên Cơ quan điều tra đã trả cho ông H quản lý sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 37/CT – VKSTN-P1, ngày 17/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Tuấn V về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” .

Về hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V từ 16 đến 17 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2022. Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 04 bì niêm phong ký hiệu A1, A2, K1, K2. Bên trong chứa ma túy thu giữ của bị cáo; 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE vỏ màu đen.

- Tạm giữ số tiền 400.000đ, để đảm bảo thi hành án;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

- Trả lại cho bị cáo: 01 căn cước công dân số 019090000516, mang tên Nguyễn Tuấn V.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định việc truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, nhưng về hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là nặng, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã ăn năn hối cải. Đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án từ 15 đến 16 năm tù để bị cáo yên tâm cải tạo tốt, sớm được trở về với gia đình.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên và người bào chữa đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, Luật sư và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Do ham muốn thu lợi bất chính nên ngày 09/3/2022, Nguyễn Tuấn V đã đến khu vực xóm TX 4, xã TT, thành phố PY, tỉnh Thái Nguyên tìm mua được 02 túi ma túy Heroine hết 15.000.000đ của một nam giới tên T (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ) có tổng khối lượng là 34,41 gam. Sau khi mua được số ma túy trên V mang về nhà ở của mình tại tổ 04B, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên, V lấy 01 gói Heroine có khối lượng 15,73 gam đem chia thành 04 gói nhỏ rồi cất giấu trong phòng trên tầng hai, gói ma túy còn lại có khối lượng là 18,68 gam V mang theo người đến khu vực tổ dân phố Ư, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên để bán cho người nam giới tên X (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ) thì bị phát hiện bắt quả tang.

Với hành vi nêu trên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a,...

b, Heroine…có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;” 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”

[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, vì vậy cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, buộc bị cáo phải cách ly xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng chống tội phạm chung.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân rất xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo được niêm phong ký hiệu A1, A2, K1, K2 và 01 cân điện tử màu đen đã cũ cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với tài sản bị tạm giữ của bị cáo gồm có: số tiền 400.000 đồng, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO thu giữ của bị cáo, bị cáo sử dụng liên lạc mua bán ma túy, vì vậy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 giấy căn cước công dân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo quản lý.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích lợi nhuận, vì vậy cần phải phạt bổ sung một khoản tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8]. Quá trình điều tra, Nguyễn Tuấn V khai nhận việc mua bán ma túy có liên quan đến người nam giới tên T và người tên X nhưng không rõ họ tên đầy đủ, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2022. Phạt bổ sung bị cáo 7.000.000đ (bẩy triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Tuấn V 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 bì niêm phong theo quy định ký hiệu A1, trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Minh Thanh, Chu Đức Ngụy, Nguyễn Đăng Hiệp và 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi “hoàn trả 1,431 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ: Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1990 – phạm tội về ma túy”;

+ 01 bì niêm phong theo quy định ký hiệu K1, trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Minh Thanh, Chu Đức Ngụy, Nguyễn Đăng Hiệp và 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi “hoàn trả 1,370 gam mẫu K1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K1 vụ: Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1990 – phạm tội về ma túy”;

+ 01 bì niêm phong ký hiệu A2, trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Tuấn V và các thành phần tham gia, đóng 03 hình dấu tròn của cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi “17,24 gam chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine thu giữ của Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1990. Ngày 09/3/2022”;

+ 01 bì niêm phong ký hiệu K2, trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Tuấn V và các thành phần tham gia đóng 03 hình dấu tròn của cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi “14,34 gam chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine khám xét thu giữ tại chỗ ở của Nguyễn Tuấn V, SN 1990 tổ 4B, P. Phố Cò, TP. Sông Công, TN”;

+ 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE, vỏ màu đen, đã qua sử dụng.

- Tạm giữ: Số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, được niêm phong trong 01 bì niêm phong theo quy định, ký hiệu B1, trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Tuấn V cùng các thành phần tham gia niêm phong, đóng 03 hình dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi có 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, thu giữ của Nguyễn Tuấn V ngày 09/3/2022.

- Trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân số 019090000516 mang tên Nguyễn Tuấn V.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 58, ngày 19 tháng 5 năm 2022 giữa Công an tỉnh Thái Nguyên với Cục THADS tỉnh Thái Nguyên; số tiền theo ủy nhiệm chi số 167/127 ngày 19/5/2022 của Kho bạc Nhà nước tỉnh Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về