TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 359/2022/HS-PT NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 30/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số 131 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường CBến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 274/2022/HS- PT ngày 07/7/2022 đối với bị cáo Đặng Văn A theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4232/2022/QĐXXPT-HS ngày 09/8/2022, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 30/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Đặng Văn A (tên thường gọi là Bé); sinh ngày năm 1971 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Sạp 118 đường B, Phường C1, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú : không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: chạy xe ôm; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn E (chết) và bà Đặng Thị G (chết); vợ tên Nguyễn Thị Thu H (không đăng ký kết hôn), có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2000 (chết);
Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: Ngày 24/4/2002, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục 18 tháng về hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng (Quyết định số 619/QĐ-UB);
Bắt, tạm giam: 01/8/2021; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 01/8/2021, trong lúc tuần tra trên tuyến đường Lò Gốm, Tổ công tác thuộc Công an Phường C7, Quận D phát hiện Đặng Văn A điều khiển xe máy mang biển số 88H2-8131 chạy đến trước nhà số 1109 đường Lò Gốm, Phường C7, Quận D lưu thông trên đường có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trong túi đeo màu nâu của A 03 gói nylon (gồm 01 gói chứa tinh thể không màu, 01 gói chứa 42 viên nén màu hồng, 01 gói chứa 19 viên nén màu hồng); thu giữ trong túi áo phía trước bên trái của A 03 viên nén màu vàng, 02 viên nén màu xanh. Lực lượng công an đã giao A và các vật chứng đã nêu cho Cơ quan điều tra Công an Quận D để xử lý.
Trong quá trình điều tra, A khai như sau: Để có tiền tiêu xài, A bắt đầu mua bán ma túy từ thời điểm cách ngày bị bắt khoảng 02 ngày. A mua của một người tên Ty (không rõ lai lịch) thông qua số điện thoại 0784173368. Tính đến ngày bị bắt, A đã 02 lần mua ma túy của Ty. Lần đầu, vào ngày 31/7/2021, A mua của Ty 100 viên ma túy với giá 9.000.000đ, thực hiện việc giao dịch ở khu vực trước nhà số 685 đường Phạm Văn Chiêu, Phường C13, quận Gò Vấp. Sau đó, A mang ma túy đến khu vực đường Huỳnh Tấn Phát, Quận 7, bán số ma túy đã nêu cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 13.000.000đ. Đến 10 giờ ngày 01/8/2021, A tiếp tục liên lạc với Ty và mua 66 viên ma túy (với giá 90.000đ/viên), và 01 gói ma túy đá giá 500.000đ. Trên đường mang số ma túy đã nêu qua Quận 7 để bán cho người phụ nữ đã đề cập thì bị công an bắt.
Tại Kết luận giám định số 4431/KLGĐ-MT ngày 09/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:
-Gói 1: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Nguyễn Văn Thành (người chứng kiến), Đặng Văn A và hình dấu Công an Phường C7, Quận D, bên trong có:
+03 viên nén màu vàng cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,8492g loại Methamphetamine, Ketamine.
+03 viên nén màu xanh cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 1,2394g, loại Methamphetamine, Ketamine.
-Gói 2: Được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (điều tra viên), Nguyễn Văn Thành (người chứng kiến), Đặng Văn A và hình dấu Công an Phường C7, Quận D, bên trong có:
+Tinh thể không màu trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,9610g, loại Methamphetamine.
+42 viên nén màu hồng trong 01 gói nylon cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 18,0930g, loại Ketamine.
+19 viên nén màu hồng trong 01 gói nylon cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 10,1014g, loại Ketamine.
Ngày 26/11/2021, Cơ quan điều tra Công an Quận D có văn bản đề nghị Phòng kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh tách riêng từng loại chất ma túy (Methamphetamine, Ketamine) và xác định khối lượng của mỗi chất (văn bản số 3347/ĐCSMT).
Ngày 30/12/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản trả lời như sau: Để xác định được khối lượng của từng chất ma túy, Phòng PC09 phải giám định hàm lượng của từng chất ma túy. Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC,TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 thì các chất ma túy như Methamphetamine, Ketamine không thuộc trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng (văn bản số 86B/PC09-Đ4).
Ngày 06/8/2021, Cơ quan điều tra Công an Quận D ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can đối với Đặng Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Quyết định số 65-QĐ/CQĐT-MT).
Đối với người thanh niên tên Ty bán ma túy cho A và người phụ nữ mua ma túy của A là những người chưa rõ lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.
Cáo trạng số 22/CT-VKS-Q6 ngày 16/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 30/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:
Căn cứ điểm p khoản 2 và 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Đặng Văn A (Bé) 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2021; phạt bổ sung 20.000.000đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của các bị cáo và bị hại.
Ngày 31/5/2022, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo pham tội lần đầu, mức án 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là quá nặng. Do vậy, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và bổ sung lý do kháng cáo như sau:
Vợ bị cáo đi đâu không rõ, con bị cáo cũng mới bị bắt.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến đối với việc giải quyết kháng cáo như sau: Hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng đều đã được xem xét. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, không phát hiện bị cáo có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không có ý kiến bào chữa hoặc tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Căn cứ lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ thu thập được, có căn cứ để xác định rằng:
Vì động cơ vụ lợi, bị cáo Đặng Văn A đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. A đã mua ma túy của một người tên Ty không rõ lai lịch và bán lại cho một người phụ nữ cũng không rõ lai lịch.
Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 01/8/2021, trong lúc bị cáo điều khiển xe máy mang ma túy đi bán thì bị Công an bắt quả tang. Lực lượng Công an đã thu giữ được của bị cáo:
-28,1944g ma túy ở thể rắn loại Ketamine;
-1,9601g ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine;
-3,0886g ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine và Ketamine.
[2].Ma túy (nói chung) là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy không chỉ gây thiệt hại về tài sản của gia đình, xã hội mà còn gây tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng của người sử dụng. Người thường xuyên sử dụng ma túy sẽ bị rối loạn nhân cách, không làm chủ được hành vi, là nguyên nhân dẫn tới nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Chính vì vậy, Nhà nước ta đã nghiêm cấm việc việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vẫn cố ý vi phạm, bất chấp hậu quả. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây nguy hại đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia; xâm phạm hoạt động của Nhà nước trong việc quản lý và kiểm soát các chất ma túy.
[3].căn cứ vào các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là đúng pháp luật.
[4].Về kháng cáo của bị cáo:
Bị cáo khai nhận đã mua bán ma túy 02 lần. Tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” đối với bị cáo.
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.
Khối lượng ma túy mà bị cáo mua bán là gần bằng 02 lần so với khối lượng ma túy khởi điểm quy định là tình tiết định khung tại khoản 2 Điều 251. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là mức án nhẹ trong khung hình phạt, là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng.
Với các lý do đã nêu, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo; cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.
[5].Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Văn A; giữ nguyên bản án sơ thẩm 30/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ điểm p khoản 2 và 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Đặng Văn A 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2021; phạt bổ sung 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
2.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 359/2022/HS-PT
Số hiệu: | 359/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về