Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 343/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 343/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 443/2022/TLST-HS, ngày 16/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3784/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh năm 1975 tại Thành phố H; Thường trú: đường A, Phường B, quận X, Thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức T (chết) và bà Ngô Thị Nguyệt E; hoàn cảnh gia đình: Có vợ là Huỳnh Thị Ngọc G và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giam từ ngày 26/4/2021 (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Huỳnh Thị Ngọc G, sinh năm 1990 HKTT: đường Q, Phường C, quận GV, Thành phố H (Có mặt) Người bào chữa: Ông Đoàn Phương Anh V, luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Đức H (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 26/4/2021, tại trước nhà số 72 đường NH, Phường D, quận BT, Thành phố H, Công an quận Bình Thạnh phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đức H đang điều khiển xe gắn máy biển số 59S2- xxxxx cất giấu trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ: bên trong H đang mặc 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,7659gam, loại Methamphetamine.

Khám xét nơi ở của Nguyễn Đức H tại nhà số 221/40 đường số 1, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố H thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, khối lượng 52,1073 gam Methamphetamine - 01 túi vải màu xám đựng 01 cân điện tử màu đen, 01 ống hút nhựa cắt xéo 01 đầu, 10 gói nylon chứa tinh thể không màu, khối lượng 1,2068 gam (kết quả giám định không tìm thấy chất ma túy);

- 01 túi vải màu đen đựng 03 gói nylon chứa tổng khối lượng 35,4456 gam Methamphetamine.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Nguyễn Đức H là 146,1024 gam Methamphetamine đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 2800/KLGĐ-MT ngày 04/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H.

Quá trình điều tra: Nguyễn Đức H khai nhận quen biết một người đàn ông tên K (không rõ lai lịch, sử dụng số điện thoại 093869xxxxx) ở khu vực Quận 11 có bán ma túy đá. Từ đầu tháng 4/2021 cho đến nay, H đã 02 lần mua ma túy của K đem về nhà tại số 221/40 đường số 1, Phường 11, quận Gò Vấp cất giấu với mục đích để sử dụng cho bản thân và bán cho người có nhu cầu mua để kiểm lời, cụ thể:

- Lần 1: Trước khi bị bắt quả tang khoảng 01 tuần, H điện thoại hỏi mua của K 20 gam ma túy đá với giá 4.800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H đem về cất giấu tại chỗ ở và phân chia thành nhiều gói nhỏ. Số ma túy này H chưa kịp bán thì bị Công an khám xét thu giữ.

- Lần 2: Vào ngày 25/4/2021, H liên lạc với K và đến khu vực bến xe khách Quận 11, mua của K 100 gam ma túy đá giá 24.000.000 đồng. H mang về chỗ ở và phân chia số ma túy thành 02 gói nylon, mỗi gói 50 gam. Đến ngày 26/4/2021, H lấy 01 gói nylon chứa 50 gam ma túy đá cất giấu vào quần lót mặc phía trong, mục đích bán lại cho khách kiếm lời. Khi H đang điều khiển đến trước số nhà 72 Nguyên Hồng, Phường 11, quận Bình Thạnh thì bị phát hiện và bắt quả tang như đã nêu trên.

Sau đó, H thay đổi lời khai về mục đích cất giấu là để sử dụng, không bán cho người khác như lời khai ban đầu.

Vật chứng vụ án:

- 05 gói niêm phong số 722 (2800/21) G1, G2, G3, G4, G5), bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động Iphone màu đen, H dùng để liên lạc mua ma túy.

- 01 điện thoại di động Iphone màu bạc, H dùng để chơi điện tử.

- 01 cân điện tử, 01 ống hút nhựa cắt xéo một đầu; 10 túi nylon chưa qua sử dụng: Là các đồ vật để phân chia, sử dụng ma túy.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda SH, biển số 59S2-xxxxx; số khung: RLHKF2502GY02741; số máy: KF25E-0027283 do bà Huỳnh Thị Ngọc G (vợ bị cáo H) đang ký chủ sở hữu. Ngày 26/4/2021, bà G cho H mượn xe, không biết việc H mua bán ma túy.

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Đức H.

Tại Bản cáo trạng số: 267/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 26/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và thừa nhận hành vi mua ma túy để sử dụng và bán lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo. Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá những chứng cứ xác định hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 20 (hai mươi) năm tù. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng.

Và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Đoàn Phương Anh V bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức H trình bày: Thống nhất với tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát đề nghị truy tố đối với bị cáo. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình để xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H. Ngoài ra, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt bổ sung và xem xét trả chiếc xe máy Honda SH cho vợ bị cáo là Huỳnh Thị Ngọc G.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố.

Bà Huỳnh Thị Ngọc G không có ý kiến gì.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị cáo và người bào chữa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai ban đầu của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người chứng kiến Lê Thanh B, Trương Văn H, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét và thu giữ, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét và thu giữ, Kết luận giám định, cùng vật chứng vụ án đã có cơ sở xác định: Bị cáo Nguyễn Đức H đã có hành vi mua ma túy về bán lại cho người khác để thu lợi bất chính, với tổng khối lượng là 146,1024 gam Methamphetamine thu giữ khi bắt quả tang và khi khám xét.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự xã hội tại địa phương, làm nguy cơ gia tăng các tệ nạn xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng vì tư lợi vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, là hành vi pháp luật cấm, nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm để đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn, khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt nên cần xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy nhưng chưa bán được, đồng thời có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G1, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP1/439BB/2022; 01 gói niêm phong số 722(2800/21)G2, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP2/439BB/2022; 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G3, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP3/439BB/2022; 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G4, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP4/439BB/2022; 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP5/439BB/2022, là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen (imei ở khay sim:

…868599, không kiểm tra được imei do không có nguồn điện), mã số DT1/439BB/2022, là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (model A1524, imei:…001434), mã số DT1/439BB/2022, là tài sản của bị cáo H không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo H.

- Đối với 01 CMND mang tên Nguyễn Đức H, mã số CMND/439BB/2022, là tài sản của bị cáo H nên trả lại cho bị cáo H.

- Đối với 01 chiếc xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Số loại: SH150; Dung tích xilanh 153; BS: 59S2-xxxxx, SK: RLHKF2502GY027241, mã số XMAY/439BB/2022, là tài sản của bà Huỳnh Thị Ngọc G, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bà G.

[5] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức H 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2021.

[2] Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G1, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP1/439BB/2022;

- 01 gói niêm phong số 722(2800/21)G2, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP2/439BB/2022;

- 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G3, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP3/439BB/2022;

- 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G4, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP4/439BB/2022;

- 01 gói niêm phong số 722 (2800/21) G5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP5/439BB/2022 * Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen (imei ở khay sim: …868599, không kiểm tra được imei do không có nguồn điện), mã số DT1/439BB/2022.

* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức H:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (model A1524, imei:…001434), mã số DT1/439BB/2022 - 01 CMND mang tên Nguyễn Đức H, mã số CMND/439BB/2022.

* Trả lại cho bà Huỳnh Thị Ngọc G:

- 01 chiếc xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Số loại: SH150; Dung tích xilanh 153; BS: 59S2-xxxxx, SK: RLHKF2502GY027241, mã số XMAY/439BB/2022 Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/439 ngày 15/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H.

[3] Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 343/2022/HS-ST

Số hiệu:343/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về