Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 06/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị P (tên gọi khác: không), sinh ngày 28 tháng 8 năm 1966 tại huyện S, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn Toại và bà Vũ Thị Nụ (đều đã chết); có chồng là Ngô Văn Bảy, sinh năm 1948 và 02 con (con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1991); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2007 bị Công an huyện S, tỉnh Sơn La ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Ghi bán số lô đề và đánh nhau” đã được xóa; bị bắt, tạm giam ngày 19/4/2021 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Phương V – Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 19/4/2021, Nguyễn Thị P đang ở nhà tại bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La thì có Nguyễn Văn C, sinh năm 1983, cùng trú tại bản T đến và đặt vấn đề với P là hiện C có 01 bánh Heroin và 05 túi Hồng phiến, C mua với giá 132.500.000 đồng. C bảo P bán giúp, sau đó C sẽ chia tiền lãi, P đồng ý.

Khoảng 19 giờ cùng ngày, P đang ở nhà thì thấy một chiếc xe ô tô màu trắng, không rõ biển kiểm soát, đỗ ở ven đường gần cổng vào nhà P. P sử dụng số điện thoại 0878.259.X gọi vào số điện thoại 0944.820.X của C nói có chiếc xe ô tô đỗ gần nhà P thì C bảo đó là người đến mua ma túy. Khoảng 05 phút sau, C đi xe máy (P không nhớ nhãn hiệu và biển kiểm soát) đến nhà P đưa cho P 01 túi nilon màu xanh bên trong có 01 bánh Heroine và 05 gói hồng phiến, đồng thời bảo P mang ra chỗ chiếc xe ô tô đang đỗ ở ven đường gần cổng vào nhà P để bán với giá 170.000.000đ, sau đó C điều khiển xe máy đi đâu thì P không biết. P cầm túi ma túy mà C đưa đi về phía xe ô tô thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy – Công an huyện S phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng là 01 bọc nilon màu xanh, dạng hình hộp, bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng, 05 túi nilon màu xanh chứa các viên nén màu hồng, P khai là Heroine và ma túy tổng hợp. Chiếc xe ô tô màu trắng ngay lúc đó bỏ chạy thoát.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngày 20/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện S thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, xác định khối lượng, trích rút mẫu giám định, kết quả:

- 01 bọc nilon màu xanh, dạng hình hộp, bên trong chứa chất cục bột màu trắng có tổng khối lượng 224,58 gam, trích 0,68 gam ký hiệu P1 làm mẫu trưng cầu giám định ma túy;

- 05 túi nilon màu xanh bên trong có chứa 853 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 80,45 gam, trích trong mỗi túi 05 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 2,35 gam, ký hiệu từ P2 đến P6 làm mẫu trưng cầu giám định ma túy.

Kết luận giám định số 834 ngày 23/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu P1 là ma túy; loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,68 gam.

Mẫu gửi giám định ký hiệu từ P2 đến P6 là ma túy; loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,35 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 224,58 gam; loại Heroine và 80,45 gam; Loại Methamphetamine.” Trên cơ sở lời khai của Nguyễn Thị P, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cho P nhận dạng Nguyễn Văn C, kết quả nhận dạng phù hợp với ảnh và tờ khai chứng minh nhân dân do phòng PC06 – Công an tỉnh Sơn La cung cấp, thể hiện thông tin Nguyễn Văn C, sinh ngày 12/5/1983; nơi ĐKHKTT: bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La;

Kết quả điều tra cũng xác định: Trong khoảng thời gian từ 13 giờ 35 phút đến 19 giờ 30 phút ngày 19/4/2021, có 09 cuộc gọi điện thoại đi – đến giữa số thuê bao của P (0878.259.X) với số thuê bao 0944.820.X lưu tên “C C Cu”. Kết quả xác minh chủ thuê bao số điện thoại 0944.820.X là Nguyễn Văn C, trú tại xã N, huyện S, tỉnh Sơn La.

Ngày 24/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Sơn La ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn C, sinh ngày 12/5/1983; nơi ĐKHKTT: bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La. Quá trình thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp xác định C không có mặt tại nơi cư trú, gia đình, chính quyền địa phương không biết C đi đâu, làm gì.

Do có hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số 143/CTr-VKS-P1 ngày 24/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị P về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P 20 (hai mươi) năm tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định cùng các mảnh, túi nilon, vỏ phong bì niêm phong ban đầu; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12 vỏ màu đen; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị P: Viện kiểm sát truy tố đúng người, đúng tội, đúng theo quy định của pháp luật. Bị cáo thành thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải, có bố là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân huy chương, do đó nhất trí với đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát về tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên, ngoài tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là khai ra đồng phạm Nguyễn Văn C; Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị P nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với quan điểm bào chữa của người bào chữa, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khác, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, Luật sư, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo.

[2.1] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra là đồng nhất, đã thể hiện: Do hám lời nên ngày 19/4/2021, tại bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La, Nguyễn Thị P đã có hành vi bán trái phép 224,58 gam Heroine và 80,45 gam Methamphetamine (tổng khối lượng hai chất ma túy là 305,03 gam) nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện S, tỉnh Sơn La lập hồi 20 giờ 10 phút ngày 19/4/2021 đối với Nguyễn Thị P; cùng vật chứng thu giữ là 224,58 gam bột liên kết màu trắng, 80,45 gam viên nén màu hồng, Kết luận giám định là ma túy, Loại Heroine và Methamphetamine. Đồng thời phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc bắt giữ đối với bị cáo và tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.

[2.2] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thị P đã bán trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 305,03 gam (224,58 gam Heroine và 80,45 gam Methamphetamine), đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Nguyễn Thị P đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 02 chất ma túy, gồm Heroine và Methamphetamine, tổng khối lượng hai chất ma túy là 305,03 gam, vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.”, quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [4.1] Nhân thân: Bị cáo Nguyễn Thị P không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, năm 2007 bị Công an huyện S, tỉnh Sơn La ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Ghi bán số lô đề và đánh nhau”, đã đủ thời gian để coi là không có tiền sự.

[4.2] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4.3] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải; là phụ nữ sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, do hám lời đã nhất thời phạm tội; khai ra đối tượng đã nhờ bị cáo bán ma túy, tuy nhiên quá trình thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì đối tượng liên quan không có mặt tại nơi cư trú, Công an tỉnh Sơn La đã chuyển tài liệu đến Công an huyện S để tiếp tục đấu tranh xử lý sau; Bị cáo có bố là ông Nguyễn Văn Toại được Nhà nước tặng thưởng 02 Huy chương kháng chiến hạng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Do hám lời, bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng lớn, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác và tệ nạn trong xã hội. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung, đồng thời đảm bảo sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Sơn La và vị Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 251 BLHS, nhưng xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, việc làm không ổn định, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các đối tượng có liên quan trong vụ án:

[7.1] Đối với người đàn ông tên Nguyễn Văn C: Bị cáo khai C là người đã thuê bị cáo mang 224,58 gam Heroine và 84,45 gam Methamphetamine đi bán. Kết quả điều tra xác minh, xác định tại bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La có 01 người đàn ông tên Nguyễn Văn C, có lý lịch đúng như bị cáo khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã tra cứu lấy ảnh của Nguyễn Văn C cho bị cáo P nhận dạng. Kết quả, bị cáo P nhận được ảnh của Nguyễn Văn C và khẳng định đúng là người đã đưa ma túy cho bị cáo để mang đi bán. Xác minh về số điện thoại 0944.820.X mà Nguyễn Thị P khai là của Nguyễn Văn C xác định người đứng tên đăng ký số thuê bao trên là Nguyễn Văn C. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và triệu tập nhiều lần đối với đối tượng Nguyễn Văn C. Tại thời điểm thi hành Lệnh giữ người và các thời điểm triệu tập Nguyễn Văn C đều không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết C đi đâu, làm gì. Với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La chuyển tài liệu về Nguyễn Văn C đến Công an huyện S và các đội trinh sát đưa vào diện quản lý nghiệp vụ để tiếp tục đấu tranh khi có đủ căn cứ sẽ có hình thức xử lý sau.

[7.2] Đối với người đến mua ma túy, đi xe ô tô: Theo bị cáo Nguyễn Thị P khai nhận đã đi đến đỗ ven đường gần nhà bị cáo P để chờ trao đổi mua bán ma túy. Quá trình điều tra bị cáo khai không biết tên, tuổi, địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo P không còn nguồn tài liệu chứng cứ nào khác để đấu tranh làm rõ.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 223,90 gam Heroine và 78,10 gam Methamphetamine thu giữ khi bắt quả tang còn lại sau khi trích rút mẫu giám định, là chất ma túy do Nhà nước cấm lưu hành; 01 túi nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh, 01 mảnh bọc nilon màu xanh và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở xét thấy không còn giá trị sử dụng, (toàn bộ đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật trong 01 phong bì do Bưu điện phát hành). Cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12, vỏ màu đen đã qua sử dụng (đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật trong 01 phong bì do Bưu điện phát hành). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, xác định chiếc điện thoại trên là của bị cáo Nguyễn Thị P sử dụng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/4/2021). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị P.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 223,90 gam Heroine và 78,10 gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh, 01 mảnh bọc nilon màu xanh và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. Toàn bộ được niêm phong trong 01 (một) phong bì do Bưu điện phát hành (còn nguyên niêm phong);

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (một) Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12, vỏ màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có số thuê bao 0339139X và 0878259X, thu giữ của Nguyễn Thị P, được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì do bưu điện phát hành (còn nguyên niêm phong);

(Chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/11/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Nguyễn Thị P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Thị P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/01/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về