Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 315/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 315/2023/HS-PT NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại Điểm cầu tổ chức phiên tòa trực tuyến gồm: Điểm cầu trung tâm - Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Điểm cầu xét xử - Phòng xét xử trực tuyến của Trại giam Chí Hòa - Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2022/TLPT-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 583/2022/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 730/2023/QĐPT-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: số 107/19/3 Phạm Văn Hai, Phường 3, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phòng số 103, Nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị B; có chồng Đỗ Trung Q và 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 05/01/2021. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Nguyễn Quốc H – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 45 phút, ngày 05/01/2021, tại trước nhà số 12 Xuân Diệu, Phường 4, quận Tân B, Nguyễn Hồng Đ đang điều khiển xe gắn máy mang biển số59P2- 809.81 chở theo Lưu Trọng N đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán thì bị kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. T trong túi quần của Đức 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định có khối lượng 0,5580 gam, loại Methamphetamine (MA) và 01 bao giấy màu đỏ đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 4,8666g, loại MA. Đức khai nhận là ma tuý đá nhận từ Nguyễn Thị Hồng T trên đường đem đi bán cho khách thì bị kiểm tra T giữ. Lưu Trọng N không biết Đức mang ma túy đi bán.

Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 05/01/2021, tiến hành kiểm tra chỗ ở của Nguyễn Thị Hồng T và Vũ Minh Q tại Phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. T giữ bên trong hộc bàn trang điểm của T: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định có khối lượng 2,4379 gam, loại MA; trên bàn uống nước bằng gỗ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 1,2478 gam, loại MA. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở trên của T và Q, tiếp tục T giữ: dưới nền nhà cạnh tủ lạnh 01 túi giấy, bên trong túi giấy có 01 bao zip màu vàng có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 49,6789 gam, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu hồng, có khối lượng 12,5378 gam, loại MDMA; T giữ trong tủ gỗ 01 cân điện tử, 01 ba lô màu nâu bên trong có 01 túi vải màu trắng đựng 12 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 1.007,16 gam, loại MA; 01 gói nylon hàn kín đựng 01 gói nylon màu xanh có chữ số 888, bên trong chứa tinh thể không màu, có khối lượng 998,14gam, loại MA; 01 túi nylon màu vàng bên trong có 01 gói nylon màu đen chứa tinh thể không màu, có khối lượng 189,83 gam, loại MA; 01 túi màu cam bên trong có 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng,có khối lượng 562,09 gam, loại Ketamine và 01 gói nylon bên trong chứa nhiều viên nén màu hồng có khối lượng 12,5375 gam, loại MDMA. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Hồng T và Vũ Minh Q.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Hồng T khai nhận: thông qua bạn bè giới thiệu, T quen biết một người đàn ông tên Danh sống tại Campuchia (không rõ lai lịch) có bán ma túy nên đã hỏi mua mang về bán lại kiếm lời. Phương thức thực hiện: khi cần mua ma túy thì T gọi điện đặt mua của Danh (giá 1kg ma tuý đá là 230.000.000đ), T chuyển tiền trước và Danh sẽ cho người đem ma túy đến giao. Sau khi nhận ma túy, T phân chia thành nhiều gói nhỏ, cất giấu trong phòng ngủ, khi nào có khách hỏi mua thì bán với giá 25 triệu đồng/01 lạng (100g), T trực tiếp giao cho khách hoặc gọi điện cho Nguyễn Hồng Đ đến lấy ma túy đem đến điểm hẹn giao và đem tiền về cho T.

Từ khoảng cuối tháng 12/2020 đến ngày 04/01/2021, T đã mua ma tuý của Danh được 02 lần, cụ thể như sau:

Lần 1: Cách ngày bị bắt hơn 01 tuần, T mua 01 kg ma túy đá với giá 230.000.000đ và đã bán gần hết số ma túy này, còn lại một ít thì bị khám xét T giữ. Lần 02: ngày 04/01/2021, T mua của Danh 02 kg ma tuý đá với giá 460.000.000 đồng và nhận lời cất giữ giúp Danh số ma túy Ketamine. Toàn bộ ma túy mua được lần này, T đem cất giấu cùng với số ma túy lần trước còn lại tại phòng 103 nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang. Số ma túy trên cùng với 01 gói ma túy để trong hộc bàn trang điểm, T để sử dụng cùng với Q. Riêng 01 gói ma túy trên bàn gỗ cạnh bàn trang điểm là của T cho Q vào ngày 04/01/2021 để Q cất giấu sử dụng. Khoảng 15 giờ ngày 05/01/2021, Q lấy gói ma túy này cùng sử dụng với T tại phòng 103 nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Sử dụng xong, Q cất giấu số ma túy còn lại vào trong hộp nhựa màu đỏ để trên bàn gỗ cạnh bàn trang điểm thì bị Công an kiểm tra phát hiện T giữ. Ngoài ra, T còn Tê Nguyễn Hồng Đ phụ giúp đem ma túy đi bán cho khách, giao cho Đức bán 01 hộp 5 gam ma tuý đá là 1.500.000 đồng, Đức hưởng chênh lệch tùy theo giá Đức bán ra. T giao ma túy cho Đức đem bán cho khách được 03 lần (không nhớ rõ thời gian), lần cuối cùng là vào khoảng 20 giờ ngày 05/01/2021, T đưa cho Đức 01 hộp 05 gam ma túy đá tại phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Đức bỏ gói ma túy vào trong bao lì xì màu đỏ đem đi giao cho khách thì bị bắt giữ như đã nêu trên.

Tuy nhiên, quá trình điều tra, T thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cùng với Danh và Đức, T chỉ thừa nhận cất giữ giúp ma túy cho Danh. Riêng gói ma túy đá T cất giấu trong hộc bàn trang điểm và gói ma túy đá Q cất giấu bên trong chiếc hộp màu đỏ để trên bàn gỗ cạnh bàn trang điểm là của Danh cho T vào ngày 02/01/2021 để sử dụng. Ngày 04/01/2021, Q xin T ma túy đá để sử dụng nên T đã lấy gói ma túy này phân chia thành 01 gói nylon nhỏ chứa ma túy đá đưa cho Q, còn lại T cất giấu trong hộc bàn trang điểm để T và Q tiếp tục sử dụng. Ngày 05/01/2021, Danh liên lạc với T và gửi cho T số ma túy đựng trong chiếc ba lô màu nâu và trong túi giấy nhưng không nói rõ mục đích để làm gì. Sau đó, T đem về cất giấu tại phòng số 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Nguyễn Hồng Đ cùng Lưu Trọng N đến nơi ở của T và Q tại phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để phụ giúp T dọn nhà thì Q đã lấy gói ma túy đá và dùng bình sử dụng ma túy của T để sử dụng với T. Sau đó, Q cất giấu số ma túy còn lại vào trong chiếc hộp màu đỏ để trên bàn gỗ cạnh bàn trang điểm, riêng dụng cụ sử dụng ma túy vẫn còn ma túy để tại bàn để cả nhóm 04 người (T, Q, Đức và Nghĩa), ai muốn sử dụng thì tự lấy. Sau khi Đức và Nghĩa sử dụng ma túy xong ra về, đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, công an kiểm tra phát hiện T giữ toàn bộ số ma túy của Danh đã cho và gửi T cùng dụng cụ sử dụng ma túy túy như đã nêu trên.

Mặc dù, Nguyễn Thị Hồng T thay đổi lời khai không thừa nhận việc mua bán ma túy cùng với Danh, Đứcvà khối lượng ma túy bị khám xét T giữ nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy. Nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã T thập thể hiện trong hồ sơ vụ án, lời khai của Nguyễn Hồng Đ, Vũ Minh Q và lời khai nhận ban đầu của T phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định việc Nguyễn Thị Hồng T thay đổi lời khai là không có căn cứ và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cùng với Nguyễn Hồng Đ.

Vũ Minh Q khai nhận: Đức sống như vợ chồng với T từ năm 2017 tại phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú. Q có biết T hoạt động mua bán ma tuý từ năm 2019. Khoảng tháng 6/2020, Q đã phụ T đi giao ma tuý được 02 lần, được T trả công, cụ thể như sau: Lần 1: Q đã giao ma tuý cho khách của T khối lượng 50 gam ma túy đá với giá bán là 10.500.000 đồng, T trả công số tiền 500.000 đồng; Lần 2: Q đã giao ma tuý cho khách của T khối lượng 100 gam ma túy đá với giá bán là 25.000.000 đồng, T trả công số tiền 1.000.000 đồng. Ngoài ra, khoảng tháng 11/2020, Q còn nhận 25 triệu đồng tiền bán 100g ma túy đá từ Toàn (không rõ lai lịch) giúp cho T. Ngày 04/01/2021, Q xin T 01 gói ma túy đá và cất giấu vào túi quần với mục đích để sử dụng. Đến khoảng 15 giờ ngày 05/01/2021, Q lấy gói ma túy T cho đem ra sử dụng và để trên bàn gỗ cạnh bàn trang điểm tại phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình để T, Đức, Nghĩa ai muốn sử dụng thì sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, Q lấy gói ma túy đá còn dư lại cất vào trong hộp nhựa màu đỏ trên bàn gỗ (sau đó bị kiểm tra T giữ). Khoảng 21 giờ, ngày 05/01/2021, Q thấy T cầm 01 gói ma túy đá đưa cho Đức cầm bỏ vào trong bao lì xì màu đỏ đem đi giao cho khách. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Q đang cùng T ở tại địa chỉ trên thì bị Công an quận Tân Bình kiểm tra T giữ ma túy. Đối với số ma tuý bị Công an khám xét T giữ, là do T đã mua của 01 người đàn ông Việt Nam sống bên Campuchia tên thường gọi là Danh (không rõ lai lịch) với mục đích bán lại kiếm lời. Lần gần nhất là vào ngày 04/01/2021, T mua 02kg ma tuý đá của Danh với giá 230.000.000 đồng/kg, sau đó cất giấu trong tủ gỗ và để một số ma túy tại nền nhà cạnh tủ lạnh trong căn phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình thì bị khám xét T giữ như trên. Tuy nhiên, quá trình điều tra, Q đã thay đổi lời khai không thừa nhận đã phụ giúp T đi giao ma tuý 2 lần và được T trả công như đã khai nhận, Q chỉ thừa nhận đã nhận 25 triệu đồng tiền bán 100g ma túy đá từ Toàn (không rõ lai lịch) giúp cho T và cất giấu trái phép 02 gói ma túy đá trong căn phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh với mục đích để sử dụng cùng với T. Ngoài ra, Q cũng thừa nhận biết việc “Mua bán trái phép chất ma túy” của T từ khoảng năm 2019 và đã chứng kiến thấy T đưa gói ma túy đá cho Đức vào lúc khoảng 21 giờ ngày 05/01/2021 để Đức đem giao cho khách sau đó bị bắt giữ cùng vật chứng. Nhận thấy, ngoài lời khai ban đầu của Vũ Minh Q về việc có tham gia mua bán ma túy cùng Nguyễn Thị Hồng T không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên chưa đủ cơ sở kết luận Q có liên quan đến số ma túy đá và Ketamine bị khám xét T giữ tại chỗ ở của Q và T vào ngày 05/1/2021 để xem xét xử lý về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” trong vụ án này. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục xác minh truy tìm đối tượng tên Toàn là người có liên quan trong vụ án để điều tra làm rõ hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cùng với T, nếu có đủ căn cứ sẽ khởi tố xử lý theo quy định.

Quá trình điều tra Nguyễn Hồng Đ khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 05/01/2021, Đức cùng Lưu Trọng N sang nhà của T tại phòng 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để phụ giúp T dọn nhà. Do căn nhà này T mới Tê (nhưng nhờ Đức đứng tên hợp đồng Tê). Sau khi dọn nhà xong, Đức lấy ma túy của Q và T để trên bàn gỗ tại căn phòng sử dụng cùng với T, Q, Nghĩa. Sau đó, Đức thấy T lấy ma túy ra phân chia vào từng gói nhỏ nên Đức có phụ giúp T hàn kín miệng gói ma túy mới phân ra. Khoảng 18 giờ cùng ngày, có người tên Đạt (không rõ lai lịch) gọi điện thoại cho Đức đặt mua 01 hộp 05gam ma túy đá với giá 1.500.000đ nên Đức nói T đưa gói ma túy có khối lượng trên cho Đức đem bán cho khách. Sau khi nhận ma túy từ T, Đức vào nhà vệ sinh lấy ra 01 ma túy ít bỏ vào trong gói nylon cất giấu vào túi quần phía trước bên phải, còn gói ma túy giao cho khách Đức bỏ trong 01 bao lì xì giấy màu đỏ và cất vào túi quần sau bên phải. Sau đó, Đức sử dụng xe máy biển số 59P2-809.81 chở Nghĩa về nhà và đồng thời đem ma túy đi giao cho khách. Trên đường đi, khi đến trước số 12 đường Xuân Diệu, Phường 4, quận Tân Bình thì Đức bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang T giữ số vật chứng là 2 gói nylon chứa tỉnh thể có khối lượng 0,5580g MA và 4,8666g, loại MA. Đức đã giúp T giao ma túy được 02 lần. Lần 1: Cách ngày bị bắt khoảng nửa tháng, Đức giao cho khách của T 01 gói ma túy trên đường Nguyễn Thượng Hiền, Quận 3 và không nhận tiền, Đức được T trả công số tiền là 300.000đ; Lần 2 vào ngày 05/01/2021, Đức đang trên đường đi giao ma túy đá như đã khai trên thì bị bắt.

Lưu Trọng N khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Hồng Đ, Nghĩa không liên quan đến việc mua bán ma túy của T và Đức. Tuy nhiên, qua xét nghiệm nhanh dương tính với ma túy nên Cơ quan điều tra đã chuyển xử lý hành chính theo quy định Đối với các đối tượng tên Danh và Đạt do Nguyễn Thị Hồng T, Vũ Minh Qvà Nguyễn Hồng Đkhông khai rõ về lai lịch địa chỉ, nên Cơ quan CSĐT không có cơ sở để xác minh, truy bắt xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 443/CT-VKS-P1 ngày 30/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Bị cáo Nguyễn Thị Hồng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm h khoản 4 Điều 251; "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 và "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Vũ Minh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 và "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Nguyễn Hồng Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 583/2022/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử như sau:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng T tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy", 02 (hai) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp hình phạt chung của cả ba tội là tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn kháng cáo theo luật định.

- Ngày 22/12/2022, bị cáo Nguyễn Thị Hồng T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có xuất trình được chứng cứ mới. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Về xét xử bị cáo T phạm tội mua bán trái phép chất ma túy chỉ dựa vào lời khai của các bị cáo khác là phản ảnh chưa đúng sự thật khách quan vụ án. Khi kiểm tra nhà bị cáo phát hiện lượng ma túy trong nhà, nếu bị cáo T chịu trách nhiệm thì bị cáo chỉ chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Gia đình bị cáo hiện tại rất khó khăn, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của Luật sư và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu với các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Nguyễn Thị Hồng T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Bởi vì:

[1] Đã có đủ căn cứ xác định: Từ tháng 6/2020 cho đến khi bị bắt, Nguyễn Thị Hồng T nhiều lần mua ma túy của đối tượng tên Danh (không rõ lai lịch) đem về phân chia bán lại cho người khác để T lợi với sự giúp sức của Nguyễn Hồng Đ. Vào lúc 20 giờ 45 phút, ngày 05/01/2021, Nguyễn Hồng Đ nhận 5,4246 gam ma túy đá loại MA của T để đi giao cho người mua, khi Đức đang điều khiển xe gắn máy mang biển số 59P2- 809.81 chở theo Lưu Trọng N đến trước nhà số 12 Xuân Diệu, Phường 4, quận Tân Bình thì bị phát hiện, bắt quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T và Q tại Phòng số 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, quận Tân Bình T giữ toàn bộ số ma túy còn lại mà T chưa bán hết gồm: 2.195,13 gam ma tuý ở thể rắn loại MA; 25,0753 gam loại MDMA và 611,7689 gam loại Ketamine.

Ngoài ra, còn T giữ bên trong hộc bàn trang điểm của T 01 gói ma tuý có khối lượng 1,2418 gam, loại MA là ma tuý T lấy ra để Q cùng T, Đức và Nghĩa sử dụng tại chỗ ở của T và Q vào ngày 04/01/2021 còn lại và trong hộc bàn trang điểm của T: 01 gói ma tuý có khối lượng 2,4379 gam, loại MA là ma tuý T cất giấu để T và Q sử dụng.

Toàn bộ số ma túy T giữ được giám định theo Kết luận giám định 418/KLGĐ-H ngày 12/01/2021 của Phòng Kỹ Tật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Như vậy, bị cáo Nguyễn Thị Hồng T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với khối lượng ma túy bị bắt quả tang, khám xét T giữ có tổng khối lượng là 2.200,5546 gam MA (gồm: 2.195,13 gam MA T giữ khi khám xét và 5,4246 gam MA T đưa cho Đức bán bị bắt quả tang);

25,0753 gam MDMA và 611,7689 gam Ketamine.

[2] Ngoài ra, Nguyễn Thị Hồng T và Vũ Minh Q còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với khối lượng 3,6797 gam loại MA cất giấu để sử dụng bị khám xét T giữ và hành vi sử dụng địa điểm là Phòng số 103, nhà số 61/32 Lưu Nhân Chú, Phường 5, quận T Tộc quyền quản lý của mình, cung cấp ma tuý, dụng cụ để cho Nguyễn Hồng Đ, Lưu Trọng N và chính T, Đức cùng sử dụng trái phép.

Với các hành vi trên, xét đã có căn cứ để kết tội bị cáo Nguyễn Thị Hồng T phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249, “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 và “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo cần phải có mức án nghiêm để trừng trị bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Mức án cấp sơ thẩm tuyên xử đối với bị cáo là đúng người đúng tội, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do bị cáo Nguyễn Thị Hồng T kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015,

1/Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hồng T. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 583/2022/HS-ST ngày 19/12/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Hồng T tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy", 02 (hai) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp hình phạt chung của cả ba tội là tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo Nguyễn Thị Hồng T có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình.

2/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Hồng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 315/2023/HS-PT

Số hiệu:315/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về