Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/HSST-QĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Thị H, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Thôn VA, xã VA, huyện QP, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn Văn C, sinh năm 1960; Con bà: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1962; có chồng: Đinh Công H2 (đang thi hành án phạt tù tại Trại giam Ninh Khánh, tỉnh Ninh Bình) và có 04 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Bản án số 53/2007/HSST ngày 09/4/2007 Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” - Bản án số 162/2007/HSST ngày 28/8/2007 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 162 bị Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy kháng nghị và Bản án số 658/2007/HSPT ngày 12/11/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 267/2007/HSST ngày 16/12/2008 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 139/2012/HSST ngày 07/6/2012 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 139 bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm kháng nghị và Bản án số 911/2012/HSPT ngày 04/9/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, y án sơ thẩm. Ngày 02/5/2018, bị cáo đi chấp hành hình phạt tù của bản án số 911/2012/HSPT ngày 04/9/2012, đến ngày 28/10/2018 chấp hành xong hình phạt tù và đã chấp hành xong án phí của tất cả các bản án nêu trên và đều đã được xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 31/12/2021 đến ngày 06/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

2. Đoàn Thế A, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Thôn CC, xã PĐ, huyện TN, tỉnh Nam Định; Chỗ ở trước khi bị bắt: Thôn VA, xã VA, huyện QP, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn Văn C, sinh năm 1960; Con bà: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1962; có vợ: Chị Vũ Thị H3, sinh năm 1996 và có 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 31/12/2021 đến ngày 06/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

* Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thị H: Luật sư Nguyễn Ngọc Thái - Công ty Luật TNHH Thuận Phong, Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ: Số 449, đường Lê Quý Đôn, tổ 9, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thế A: Luật sư Phạm Văn Hoàng - Văn phòng luật sư Thái Bình, Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ: Số 240, đường Trần Thánh Tông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Người làm chứng:

1. Anh Vũ Thanh T - Sinh năm 1983.

Địa chỉ: Tổ X, thị trấn QC, huyện QP, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Gia T1 - Sinh năm 1985.

Địa chỉ: Thôn QT, xã QM, huyện QP, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

1. Anh Lê Duy B - Sinh năm 1972.

Địa chỉ: Thôn VL, xã VA, huyện QP, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Nguyễn Xuân T2 - Sinh năm 1973.

Địa chỉ: Thôn HV, xã VA, huyện QP, tỉnh Thái Bình.

(Có mặt bị cáo H, bị cáo Anh, luật sư Thái, luật sư Hoàng; Vắng mặt người làm chứng và người chứng kiến)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 11 năm 2021, tại nhà của bị cáo Đoàn Thị H, một người phụ nữ tên Minh quê ở thành phố Hải Phòng (H không biết đầy đủ họ, tên đệm và địa chỉ) đến bán cho H 01 gói ma tuý loại Heroine với giá 30.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H chia và gói bằng giấy kẻ ô ly được hơn 2.000 gói đựng vào chiếc xoong cất dưới gầm gường trong phòng bếp. Mỗi gói ma túy, H bán với giá 100.000 đồng. Để tránh bị phát hiện việc cất giấu trái phép chất ma túy trong phòng bếp, Đoàn Thị H và em trai là Đoàn Thế A (ở cùng nhà với H) thống nhất cửa bếp luôn luôn phải chốt phía bên trong hoặc khóa bên ngoài, nếu có Công an vào kiểm tra thì người còn lại trong nhà phải khóa trái cửa phòng và mang toàn bộ số ma túy đi vứt bỏ. H là người thường trực bán ma túy, khi H ốm hoặc vắng nhà thì Đoàn Thế A sẽ bán giúp.

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 31/12/2021, khi Đoàn Thị H đang nghỉ trưa ở phòng bếp, Đoàn Thế A đang nghỉ trưa trên tầng 2 thì Vũ Thanh T đến cửa sổ cạnh nhà hỏi “H ơi còn hàng không để cho anh 01 cái hê”, H trả lời “còn”. T đưa tờ tiền 100.000 đồng qua lỗ nhỏ gần cửa sổ, H nhận tiền và dùng hai ngón tay cầm gói ma túy loại Heroine có khối lượng 0,0297 gam đưa cho T. Sau khi T mua xong, cũng với hình thức như trên H tiếp tục bán cho Nguyễn Gia T1 01 gói ma túy loại Heroine có khối lượng 0,0283 gam với giá 100.000 đồng. Mua được ma túy, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave S, biển kiểm soát 17L4-2089 chở T1 về thị trấn Quỳnh Côi. Khi T, T1 đi đến địa phận thôn VP, xã AN, huyện QP thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ của T 0,0297 gam ma túy loại Heroine, của T1 0,0283 gam ma túy loại Heroine. T, T1 khai vừa mua ma tuý của Đoàn Thị H ở thôn VA, xã VA, huyện QP.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở Đoàn Thị H. Khi lực lượng Công an đến nhà khám xét, H nghe thấy tiếng ồn trước cửa, H mở cửa ra ngoài. Do có sự bàn bạc, thống nhất từ trước về việc bán ma túy, cũng như việc đối phó với các cơ quan chức năng nên khi H vừa ra khỏi phòng, thì Đoàn Thế A chốt khóa cửa phía trong. Ngay lúc đó, Đoàn Thế A nghe thấy có tiếng gõ cửa, nhìn trên màn hình Camera thấy có nhiều người, biết là Công an vào kiểm tra, Đoàn Thế A lấy số gói đựng Heroin cất ở trong xoong dưới gầm giường mang vào nhà vệ sinh tầng 1 đổ ra miệng ống nước thoát sàn, xả nước nhưng do ống thoát sàn bị tắc không trôi được nên Thế A đã vơ số gói chất ma túy cho vào xô tiếp tục mang lên nhà vệ sinh tầng 3 đổ các gói ra miệng ống nước thoát sàn, xả nước nhưng không trôi được. Sau đó, Đoàn Thế A tiếp tục vơ một nắm các gói ma túy mang lên sân phơi tầng 4 để vứt đi thì bị Cơ quan điều tra ngăn cản, bắt giữ.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Thị H, Cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ:

- Thu trên nền sân phơi tầng 4: 20 gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong các gói đều chứa ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 0,09763 gam.

- Thu trên song sắt chắn tại sân phơi tầng 4: 02 gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong các gói đều chứa ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 0,0916 gam.

- Thu trên nền nhà vệ sinh tầng 3: 350 gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong các gói đều chứa ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 11,6354 gam.

- Thu trên nền nhà vệ sinh tầng 1: 1998 gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong các gói đều chứa ma túy loại Heroine, khối lượng là 61,7521 gam.

- Thu trong tủ gỗ để tivi trong phòng bếp tầng 1: 180.000.000 đồng.

- Thu trên mặt bàn bếp trong phòng bếp tầng 1: 50 vỏ túi nilon trong suốt, 01 cân điện tử vỏ màu xanh đã cũ và 37.000.000 đồng.

- Thu trên nóc tủ gỗ trong phòng bếp tầng 1: 01 đầu thu có in chữ Western Digital và 01 đầu thu có in chữ Mobile HDD 1TB.

- Thu tại các vị trí khác nhau trong nhà của Đoàn Thị H 25 mắt camera J hua.

- Thu trên giường trong phòng bếp tầng 1: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đen.

Tổng cộng số Heroine thu giữ khi khám xét tại nơi ở của Đoàn Thị H là 74,4554 gam. H khai số ma tuý trên mục đích mua về để bán.

- Kết luận giám định số 01/KLGD-PC09 ngày 03/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận “Mẫu vật quản lý thu giữ của Vũ Thanh T gửi giám định là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,0297 gam; Mẫu vật quản lý thu giữ của Nguyễn Gia T1 gửi giám định là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,0283 gam".

- Kết luận giám định số 02/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận “Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu là M1 gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,09763 gam; Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,0916 gam; Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng 11,6354 gam; Mẫu vật trong phong bì niêm phong ký hiệu M4 gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng 61,7521 gam”.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKSTC-V4 ngày 23/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Đoàn Thị H và bị cáo Đoàn Thế A về tội ”Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo như bản Cáo trạng đã kết luận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Thị H từ 16 năm 06 tháng tù đến 17 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Thế A từ 15 năm tù đến 16 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Đề nghị phạt tiền đối với bị cáo Đoàn Thị H từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng; Phạt tiền đối với bị cáo Đoàn Thế A từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, quyết định án phí đối với các bị cáo.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.

* Người bào chữa cho các bị cáo Đoàn Thị H, Đoàn Thế A tranh luận: Các luật sư đều nhất trí về tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với các bị cáo. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra”, khi đó chồng bị cáo H đang thi hành án phạt tù, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình và phải nuôi 4 con nhỏ nhưng không có việc làm, thu nhập ổn định. Bị cáo Đoàn Thế A chỉ giúp sức bán ma túy trong thời gian bị cáo H bị mắc Covid-19 nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, g khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất, trong đó áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Thế A dưới khung hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội đã thực hiện, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm được trở về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo, luật sư bào chữa cho các bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận: Tháng 11/2021, bị cáo Đoàn Thị H mua 30.000.000 đồng ma tuý loại Heroine của người phụ nữ tên Minh không rõ họ, tên đệm, địa chỉ, rồi chia thành 2000 gói nhỏ đem cất dấu để bán. Các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A bàn bạc cách thức bán ma tuý, chống việc phát hiện của cơ quan chức năng và tiêu huỷ ma tuý khi bị cơ quan chức năng phát hiện. Khoảng 14 giờ ngày 31/12/2021, tại nhà ở của gia đình bị cáo H, các bị cáo bán trái phép cho Vũ Thanh T 0,0297 gam Heroine và Nguyễn Gia T1 0,0283 gam Heroine lấy 200.000 đồng. Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của H, phát hiện bị lộ Đoàn Thế A lấy ma tuý mang vào tầng 1, lên tầng 3, tầng 4 để tiêu huỷ. Quá trình khám xét Cơ quan điều tra thu giữ được tổng số 74,4554 gam Heroine. H khai toàn bộ số ma tuý trên mua về để H bán kiếm lời. Khi H bận hoặc ốm thì Thế A giúp H bán ma túy.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, những người chứng kiến. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ như: Biên bản phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 20 phút ngày 31/12/2021 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã An Ninh, huyện QP, tỉnh Thái Bình; Biên bản khám xét do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 18 giờ 31 phút ngày 31/12/2021 tại chỗ ở của Đoàn Thị H; Các biên bản tạm giữ, niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình thực hiện; Kết luận giám định số 01/KLGD-PC09 ngày 03/01/2022 và Kết luận giám định số 02/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[6] Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Đoàn Thị H mua 74,4554g ma tuý loại Heroine mang về chia nhỏ cất dấu tại gia đình, mục đích cùng với bị cáo Đoàn Thế A bán kiếm lời. Thực tế các bị cáo đã bán trái phép cho Vũ Thanh T 0,0297 gam Heroine và Nguyễn Gia T1 0,0283 gam Heroine lấy 200.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng pháp luật.

Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2… 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) … b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

4… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[7] Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm mất trật tự trị an xã hội, là nguồn gốc lây nhiễm căn bệnh HIV- AIDS, làm suy yếu sức khoẻ con người, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt trong đời sống kinh tế, xã hội cũng như đạo đức, quan hệ gia đình và nguồn gốc phát sinh những loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì hám lợi vẫn mua ma túy để bán kiếm lời vì vậy cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm minh đồng thời là bài học răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[8] Đánh giá vai trò của các bị cáo: Bị cáo Đoàn Thị H là người mua ma túy, chia lẻ số ma túy, thống nhất phương pháp bán và tiêu huỷ ma tuý khi bị cơ quan chức năng phát hiện. Bị cáo Đoàn Thế A giúp sức cho bị cáo H bán ma tuý khi H bận hoặc ốm và trực tiếp tiêu hủy ma túy khi bị cơ quan phát hiện, tuy nhiên bị cáo Thế A không được bị cáo H trả công, phân chia lợi nhuận nên xác định bị cáo H giữ vai trò thứ nhất cần xử phạt mức án cao hơn bị cáo Thế A.

[9] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A bán ma túy cho hai người nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[10] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Lý do luật sư đưa ra các bị cáo “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra” là không phù hợp pháp luật, vì vậy không có căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình cho các bị cáo.

[11] Từ những đánh giá về tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo xét thấy cần xử phạt cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[12] Hình phạt bổ sung: Qua xác minh thể hiện bị cáo H có nhà ở 3 tầng, bị cáo Thế A khai làm mộc cho anh trai có thu nhập, do vậy ý kiến của luật sư đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo là không có cơ sở chấp nhận. Các bị cáo mua bán ma túy mục đích kiếm lợi nhuận nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A.

[13] Xử lý vật chứng:

+ Số ma tuý thu giữ của các bị cáo còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 50 vỏ túi nilon, 01 cân điện tử là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

+ 02 chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo Đoàn Thị H và bị cáo Đoàn Thế A không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho các bị cáo.

+ 02 đầu thu và 25 mắt camera thu giữ của bị cáo Đoàn Thị H, bị cáo sử dụng để phục vụ cho việc bán ma túy cần tịch thu hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Số tiền 7.000.000 đồng do bị cáo Đoàn Thị H bán ma túy mà có. Cần tịch thu để sung vào ngân sách Nhà nước.

[14] Nguồn gốc ma tuý Đoàn Thị H khai mua của một người phụ nữ tên Minh, bị cáo không biết họ, tên đệm, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý là phù hợp.

[15] Vũ Thanh T và Nguyễn Gia T1 là người mua ma túy của Đoàn Thị H vào ngày 31/12/2021 mục đích về sử dụng. Do khối lượng chất ma túy T, T1 mua dưới 0,1 gam và bản thân chưa có tiền án, tiền sự về hành vi liên quan đến ma túy nên Cơ quan điều tra xử phạt hành chính là đúng pháp luật.

[16] Kết quả điều tra xác định số tiền 210.000.000 đồng thu giữ tại nhà ở của bị cáo Đoàn Thị H là tiền bán đồ gỗ của anh Đoàn Mạnh Cường (em trai bị cáo H) nhờ bị cáo H giữ hộ, Cơ quan điều tra đã trả số tiền 210.000.000 đồng cho anh Đoàn Mạnh Cường là phù hợp.

[17] Về án phí: Các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

2.1. Xử phạt bị cáo Đoàn Thị H 16 (mười sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Đoàn Thế A 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Phạt tiền bị cáo Đoàn Thị H 10.000.000 đồng và bị cáo Đoàn Thế A 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu số ma túy được niêm phong trong 06 phong bì hoàn trả mẫu vật giám định theo Kết luận giám định số 01/KLGĐ-PC09 và số 02/KLGĐ-PC09 cùng ngày 03/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và 50 vỏ túi nilon, 01 cân điện tử để tiêu hủy.

- Trả lại bị cáo Đoàn Thị H và bị cáo Đoàn Thế A mỗi người 01 chiếc điện thoại cùng nhãn hiệu OPPO.

- Tịch thu 02 chiếc đầu thu + 25 mắt camera của bị cáo Đoàn Thị H để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu số tiền 7.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Đoàn Thị H để sung vào ngân sách Nhà nước.

Số vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận, bảo quản tang vật, tài sản thi hành án và Biên lai tạm thu số 0002164 cùng ngày 25/5/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình.

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Đoàn Thị H và Đoàn Thế A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về