Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý số: 17/2023/TLST-HS, ngày 03/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:16/2023/QĐXXST-HS, ngày 10/4/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, sinh năm 2001.

Trú tại: Thôn Đồng Đoài, xã Đại Đồng Thành, thị xã T, tỉnh B; trình độ văn hoá: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V (đã chết) và bà Trương Thị T, sinh năm 1963; gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là thứ 5; vợ là Nguyễn Thị Hồng G, sinh năm 1999 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2022 đến nay (có mặt tại điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh B).

Người tham gia tố tụng khác: Ông Hoàng Phương N, cán bộ tin học.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19h40’ ngày 24/12/2022, tại khu vực trước cửa nhà nghỉ MP thuộc phố Hồ, thị trấn Hồ, T. Công an huyện T kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Văn P đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho một người thanh niên không rõ tên, tuổi, địa chỉ. Thu giữ:

+ Tại túi quần phía trước bên trái P đang mặc 01 túi nilon màu trắng có viền kẻ màu đỏ, bên trong có 10 túi nilon màu trắng viền kẻ màu xanh, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng P khai đó là ma túy (dạng Ke).

+ 01 xe mô tô Honda SH màu đen trắng BKS: 98B2- xxxxx của P.

+ 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng bên trong lắp sim số 0382.524.xxx. Ngoài ra Công an còn thu giữ 01 điện thoại di động Nokia 105 bên trong lắp sim số 0896.626.xxx ở trên mặt bàn ghế đá trước cửa nhà nghỉ MP.

Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời niêm phong vật chứng rồi gửi đi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 124/KL-KTHS ngày 26/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B đã kết luận:

“ Các chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư gửi giám định có viền kẻ màu đỏ có khối lượng 5,8994 gam, là ma túy, loại ma túy: Ketamine”.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Văn P khai nhận: P làm tại viện tóc N thuộc thôn My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Qua quan hệ xã hội, P có quen biết người thanh niên tên H ở phố Hồ, thị trấn Hồ, T nhưng không biết chính xác tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Khoảng 14h ngày 24/12/2022, khi P đang ở quán cắt tóc N thì H dùng số điện thoại 0896.626.xxx nhắn tin đến số điện thoại 0382.524.xxx của P hỏi: “Anh có không”, “10 chỉ giá như thế nào, có rẻ hơn không?”. P hiểu H nhắn tin mua ma túy Ke nên gọi điện nói chuyện với H thống nhất bán 10 chỉ ma túy Ke với giá 12.000.000đ và hẹn giao hàng ở khu vực trước cửa nhà nghỉ MP thuộc phố Hồ, thị trấn Hồ, T. P yêu cầu H chuyển khoản trước cho P số tiền 1.000.000đ để đặt cọc mua bán ma túy, đồng thời nhắn tin cho H số tài khoản của P là 1900101080xxxx mở tại Ngân hàng TMCP Hàng H Việt Nam, chi nhánh B, H đồng ý.

Khoảng 17h 08’ cùng ngày, tài khoản của P nhận được 1.000.000đ. P gọi điện cho H thì H xác nhận đã chuyển tiền đặt cọc mua ma túy cho P. Sau đó, P điều khiển xe mô tô Honda SH màu trắng đen BKS: 98B2- xxxxx đi đến khu vực ngã tư xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để tìm mua ma túy. Tại đây, P gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 10 chỉ ma túy ke với giá 9.000.000đ. P cất số ma túy vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe đến khu vực trước cửa nhà nghỉ MP để bán cho H. Khi P và H đang nói chuyện giao dịch mua bán ma túy thì bị Công an thị xã T kiểm tra bắt quả tang. Người thanh niên tên H lợi dụng sơ hở đã bỏ chạy thoát.

Bản cáo trạng số: 24/CT-VKSTT, ngày 03/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố Nguyễn Văn P về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1, điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Văn P về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 điều 251; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 của Bộ luật hình sự; điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt P từ 28 đến 34 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2022. Phạt bị cáo từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 1.000.000đ; 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia 105.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì đựng mẫu vật sau giám định, có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

+ 01 Biển kiểm soát 98B2- xxxxx.

+ 01 sim số 0382.524.xxx và 01 sim số 0896.626.xxx.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã T,Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19h40’, ngày 24/12/2022 tại khu vực trước cửa nhà nghỉ MP thuộc phố Hồ, phường Hồ, thị xã T. Nguyễn Văn P đang có hành vi bán trái phép cho một người thanh niên không quen biết các chất tinh thể màu trắng có khối lượng 5,8994 gam Ketamine. Hành vi của Nguyễn Văn P đã phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý”, phạm vào khoản 1, điều 251 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát triển các tội phạm hình sự khác. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, đã tác động đến gia đình nộp lại số tiền 1.000.000đ là tiền mua bán ma túy, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

[3] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, cần áp dụng khoản 5, điều 251 Bộ luật hình sự phạt bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.

[4] Về vật chứng: Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền 1.000.000đ là tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng lắp sim số 0382.524.xxx và 01 điện thoại di động Nokia 105 lắp sim số 0896.626.xxx (P khai là của H). P và H đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, xét thấy đây là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung quỹ.

Ngoài ra Cơ quan điều tra có thu giữ: 01 chiếc xe mô tô Honda SH màu đen trắng BKS: 98B2- xxxxx P sử dụng để đi mua bán ma túy. P khai khoảng đầu tháng 12/2022, có một nam thanh niên tên H1, sinh năm 1997 ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang có vay của P số tiền 40.000.000đ và để lại chiếc xe mô tô trên làm tin nhưng không đưa giấy tờ xe cho P. P không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của H1. Khi H1 vay tiền của P thì có viết 01 giấy vay nợ nhưng P đã làm mất tờ giấy trên. Quá trình điều tra đã xác định chủ sở hữu của chiếc xe mô tô là chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1991 trú tại thôn Lương Châu, xã Tiên Dược, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, chiếc xe mang BKS: 29S6-xxxxx. Ngày 09/4/2021, chị Th dựng chiếc xe trên tại trước cửa công ty của gia đình ở số 158 QL03, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội thì bị kẻ gian trộm cắp. Cơ quan CSĐT Công an thị xã T đã có công văn trao đổi với Cơ quan CSĐT Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đồng thời tách phần tài liệu cùng chiếc xe trên, bàn giao cho Công an huyện Sóc Sơn để điều tra theo thẩm quyền là phù hợp pháp luật.

Đối với chiếc BKS: 98B2- xxxxx, xét thấy không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số ma túy: P khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực ngã tư xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. P không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này ở đâu nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Đối với người thanh niên tên H mua ma túy của P vào ngày 24/12/2022. Do P không biết chính xác tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra Công an không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Đối với số điện thoại 0896.626.xxx mà H sử dụng để liên lạc mua ma túy với P. Quá trình điều tra xác định người đăng ký đứng tên thuê bao là anh Phạm Ngọc T, sinh ngày 25/3/2001, số Chứng minh nhân dân 31246xxxx ở xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng anh T hiện không có mặt tại địa phương. Bản thân P khẳng định không quen biết gì với anh T. Vì vậy Cơ quan điều tra đã tách các tài liệu này ra để tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội "mua bán trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1, 5 điều 251; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điều 106; khoản 1, 3 điều 329; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án.

Xử phạt: Nguyễn Văn P 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2022. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày 25/4/2023 để đảm bảo thi hành án. Phạt bị cáo 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 1.000.000đ; 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia 105.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì đựng mẫu vật sau giám định, có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

+ 01 Biển kiểm soát 98B2- xxxxx.

+ 01 sim số 0382.524.xxx và 01 sim số 0896.626.xxx.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về