Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 203/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 203/2022/HS-ST NGÀY 24/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 183/2022/TLST-HS ngày 18/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2022/QĐXXST-HS ngày 08/11/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc T (Tý Bông), sinh năm: 1984 tại Đ. HKTT: Tổ 14, khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ.

Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Phật Trình độ học vấn: 8/12 - Nghề nghiệp: Làm thuê.

Con ông Trần Văn H (đã chết) và bà Ngô Thị A (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Tiền sự: Ngày 04/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 10/8/2020 đã chấp hành xong.

Bị giam giữ từ ngày 09/6/2022 tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đ.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Bá H, sinh năm: 1964. (bị cáo có mặt, người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc T là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm và đã 03 lần bị đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc. Vào khoảng 17 giờ ngày 08/6/2022 T gọi điện qua mạng xã hội Zalo cho đối tượng tên C (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua 700.000 đồng tiền ma túy đá, Trịnh đồng ý và hẹn T đến khu vực trước công sân Golf thuộc khu phố 3, thị trấn T để giao ma túy. Sau khi lấy được ma túy, T đem về nhà ở khu phố 2, thị trấn T, huyện T lấy một ít ra sử dụng, số còn lại T phân ra thành 03 gói nhỏ, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Đến khoảng 20 giờ ngày 08/6/2022, thì có đối tượng tên T (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến hỏi mua ma túy, T đã bán 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng cho T, còn lại 02 gói T cất giấu trong phòng ngủ, đến khoảng 11 giờ ngày 09/6/2022 Công an huyện T phối hợp với Công an thị trấn T tiến hành kiểm tra phát hiện, thu giữ 02 gói ma túy trong phòng ngủ của T.

Vật chứng thu giữ:

- 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (đã niêm phong), ngoài phong bì có chữ ký của Trần Ngọc T và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T.

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cân tiểu ly.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xám đen, số sim: 0366.123.xxx;

- Số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại bản kết luận giám định số 1246/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,1729 gam, loại: Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 186/CT-VKS-TB ngày 07/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Trần Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1246/KL-KTHS ngày 15/6/2022, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 sim số 0366.123.xxx đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xám đen là công cụ T sử dụng để liên hệ mua ma túy và số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiên thu lợi bất chính, đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công.

Đối với số tiền 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm ngàn đồng) và 01 cân tiêu ly của T không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra trả lại cho T.

Đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1246/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ.

Đối với đối tượng tên Trịnh Cút bán ma túy cho T và đối tượng T mua ma túy của T, do không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc T mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

- Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra và không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 08/6/2022, tại khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ, Trần Ngọc T đã bán 01 gói ma túy đá cho đối tượng tên T. Đến khoảng 11 giờ ngày 09/6/2022, khi T đang tàng trữ 1,1729 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Trần Ngọc T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động mua bán trái phép chất ma túy và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời bị cáo có một tiền sự về cai nghiện bắt buộc nên cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội.

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1246/KL- KTHS ngày 15/6/2022, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 sim số 036612xxxx.

Tịch thu sung nộp Ngân sách Nhà nước với 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xám đen là công cụ bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy và số tiền thu lợi bất chính 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2022.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1246/KL- KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đã qua sử dụng và 01 sim có số seri 8984 04800 00729 xxxxx.

Tịch thu sung nộp Ngân sách Nhà nước với 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xám đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2022 và biên lai thu tiền số 0005314 ngày 13/10/2022.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 203/2022/HS-ST

Số hiệu:203/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về