Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 199/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 199/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 152/2022/TLST- HS ngày 20 tháng 5 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 06 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1992 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn L (chết) và bà Trần Thị Ngọc Á, sinh năm không rõ; chồng tên Nguyễn Thanh S, sinh năm 1988 (đã ly hôn); có 04 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người chứng kiến:

Trần Thanh N; Dương Chí L; Nguyễn Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Minh T, Trần Thanh N và Dương Chí L, thuê nhà sống chung tại khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. N rủ L và T mua ma túy về bán lại cho người khác lấy tiền lời sử dụng ma túy.

Sáng ngày 05/3/2017, Dương Chí L điều khiển xe mô tô biển số 95H1- 048.93 chở Nguyễn Thị Minh T đến khu Cầu Bông thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mua của người phụ nữ tên L (chưa rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 500.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày Nguyễn Văn T (tên gọi khác L) gọi điện cho N hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, Ngự nói cho T biết và T đưa cho N 01 bịch ma túy đá. N đem 01 gói ma túy đưa đến gần khách sạn A thuộc khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương để bán cho T và lấy 300.000 đồng về đưa cho T.

Đến khoảng 21 giờ ngày 07/3/2017, Dương Chí L điều khiển xe mô tô 95H1-048.93 chở T đến khu Cầu Bông thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mua của người phụ nữ tên L (chưa rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 500.000 đồng. Sau khi mua ma túy về, T phân ma túy ra làm 02 bịch và để ra ngoài một ít sử dụng.

Đến khoảng 13 giờ ngày 08/3/2017, Nguyễn Văn T gọi điện cho N hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá. N hỏi T còn ma túy không có người quen hỏi mua 500.000 đồng ma túy. T nói chỉ có bịch 300.000 đồng nhưng nếu người quen thì T để lại với giá 500.000 đồng 02 bịch. T đưa cho Ngự 02 bịch ma túy đá đến bãi đất trống thuộc khu phố Đ, phường T để bán cho T. Khi N đến nơi chuẩn bị đưa ma túy cho T thì bị Công an phường T kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố (thị xã cũ) D, bắt khẩn cấp Dương Chí L thu giữ 01 bộ sử dụng ma túy đá. Riêng Nguyễn Thị Minh T đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên không bắt tạm giữ.

Trần Thanh N, Dương Chí L và Nguyễn Thị Minh T khai nhận toàn bộ hành vi mua bán ma túy như trên.

Vật chứng thu giữ:

- 02 bịch nilong bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (N khai là ma túy đá), 01 bộ sử dụng ma túy đá;

- Tiền mặt 500.000 đồng;

- 01 điện thoại di động Mobistar, sim số 0888.182822.

Tại bản Kết luận giám định số: 337/GĐ-PC54 ngày 19/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi đến giám định được niêm phong trong bì thư có chữ ký của người bị bắt Trần Thanh N và hình dấu đỏ Công an phường T, thành phố (thị xã cũ) D, tỉnh Bình Dương: Có trọng lượng 0,1063 gam có Methamphetamine, hàm lượng 64,62%. Trọng lượng Methamphetamine trong 0,1063 gam mẫu là 0,0687 gam.

Đối với Trần Thanh N và Dương Chí L đã bị Tòa án nhân dân thành phố D đưa ra xét xử, về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo bản án số 226/2017/HSST ngày 05/09/2017 và đã xử lý vật chứng.

Đối với Nguyễn Thị Minh T, bỏ trốn nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố (thị xã cũ) D đã ra quyết định truy nã. Ngày 08/11/2021, Nguyễn Thị Minh T đầu thú và đang có thai nên được tại ngoại điều tra.

Tại Cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 19 tháng 05 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Minh T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Minh T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù;

Về xử lý vật chứng: Đã được xử lý bản án số 226/2017/HSST ngày 05/09/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Nguyễn Thị Minh T, Trần Thanh N và Dương Chí L có 02 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn khu phố Đ, phường T, thành phố D (thị xã D cũ), tỉnh Bình Dương; lần thứ 1 là ngày 05/3/2017, lần thứ 2 vào ngày 08/3/2017 thì bị phát hiện và bắt giữ. Hành vi của Nguyễn Thị Minh T và đồng bọn thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 19 tháng 05 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo cùng đồng phạm thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo đầu thú, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nuôi con nhỏ và bị truy nã.

 [7] Về xử lý vật chứng: Đã được xử lý bản án số 226/2017/HSST ngày 05/09/2017 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.

[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo cùng các đồng phạm đều là người thực hành; nên không xem là đồng phạm có tổ chức.

[9] Mức hình phạt, đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Đối với người phụ nữ tên L bán ma túy cho T, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được s tiến hành xử lý sau.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Minh T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án;

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Minh Th phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 199/2022/HS-ST

Số hiệu:199/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về