TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 145/2022/HS-ST NGÀY 30/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện B, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 137/2022/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số:144/2022/HSST- QĐ ngày 18 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Tiến D, sinh ngày 28/11/1993, tại P; nơi cư trú: Khu T, thị trấn T, huyện T, tỉnh P; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Nguyễn Văn N, mẹ đẻ: Bùi Thị Đ; vợ: Ngô Thị H (đã ly hôn), có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: tại Bản án hình sự sơ thẩm số 123 ngày 28/9/2012 của TAND thành phố Vĩnh Yên, tỉnh V xử phạt Nguyễn Tiến D 06 tháng 14 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản, được trả tự do tại tòa ngày 28/9/2012; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2022 cho đến nay (có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1998;
nơi cư trú: TDP M, phường K, thành phố V, tỉnh V ( vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21h50’ ngày 04/8/2022, Nguyễn Tiến D đang chơi ở thôn N, xã T, huyện B, tỉnh V thì nhận được điện thoại của Nguyễn Văn H hỏi mua ma túy kẹo. Do D có sẵn ma túy nên D đồng ý bán và hẹn H đến khu vực gần nhà nghỉ L thuộc thôn Ngũ Hồ, xã Thiện Kế, huyện B để mua bán ma túy. Sau đó, D đem theo 04 viên ma túy kẹo đi bộ đến điểm hẹn gặp Hiệu, Hiệu hỏi D “đồ đâu” (ý là hỏi ma túy kẹo đâu), thì D dùng tay phải lấy ma túy trong túi quần bên phải của mình đưa cho H nhưng H chưa kịp nhận ma túy thì bị Công an tỉnh V kiểm tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ tang vật chứng gồm: Thu giữ tại bàn tay phải của D 04 viên nén hình cánh hoa, màu cam, một mặt có in ký tự “B” được gói trong một mảnh giấy màu trắng ( D khai nhận đây là 04 viên ma túy kẹo D đem đi để bán) được niêm phong ký hiệu A1, 01 điện thoại di động Iphone màu trắng vàng và số tiền 400.000 đồng tại túi quần phía sau bên phải của D; thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Hiệu số tiền 500.000 đồng.
Ngày 05/8/2022, CQĐT – Công an tỉnh V, trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V giám định thành phần, khối lượng ma túy mẫu A1. Tại Bản kết luận giám định số 2409 ngày 08/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V kết luận:
“04 viên nén hình cánh hoa màu cam của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 1,9049gam loại MDMA”.
Hoàn lại sau giám định gồm A1 = 1,7867 gam mẫu và toàn bộ bao gói.
Về nguồn gốc ma túy D khai nhận: Ngày 03/8/2022, D đi chơi tại thành phố Thái Nguyên gặp bạn tên là Đ ( D không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể), được Đ cho 04 viên ma túy kẹo, D cất giấu trên người. Đến khoảng 21h00’ ngày 04/8/2022, D nhận được điện thoại của Nguyễn Văn H hỏi mua ma túy kẹo để sử dụng, do đang có sẵn ma túy kẹo và cần tiền để tiêu sài, D đồng ý bán ma túy cho H đồng thời hẹn H đi đến khu vực gần nhà nghỉ L thuộc thôn Ngũ Hồ, xã Thiện Kế, huyện B, tỉnh V để bán ma túy. Sau đó, D và H gặp nhau đang trao đổi mua bán ma túy thì bị Công an tỉnh V kiểm tra phát hiện, bắt quả tang vào hồi 22h00’ cùng ngày.
Tại Cáo trạng số: 147 /CT-VKSBX ngày 08/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến D vẫn khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/8/2022.
Ngoài ra còn đề nghị xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Tiến D không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận:
Khoảng 22h30 ngày 04/8/2022, tại khu vực gần cổng nhà nghỉ L thuộc thôn Ngũ Hồ, xã Thiện Kế, huyện B, tỉnh V, Nguyễn Tiến D đang có hành vi bán 1,9049 gam ma túy loại MDMA cho Nguyễn Văn H nhưng D chưa kịp đưa ma túy cho H thì bị cơ quan CSĐT- Công an tỉnh V phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Tiến D đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Nội dung Điều luật quy định:
"1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”… Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Xét về nhân thân, tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy:
Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm tù nên theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.
Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xét xử về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo đã có thời gian chấp hành hình phạt tù trong trại giam nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục đi bán ma túy. Hiện tại trên địa bàn huyện B, tỉnh V các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cân chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp. [5] Về vật chứng:
Đối với mẫu giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V hoàn lại sau giám định là A1= 1,7867 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói cần tịch thu để tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại di động Iphone thu của Nguyễn Tiến D, quá trình điều tra xác định là tài sản của D, đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy ngày 04/8/2022 nên cần tịch thu, bán phát mại nộp ngân sách nhà nước.
Đối với số tiền 400.000 đồng tạm giữ của Nguyễn Tiến D, quá trình điều tra xác định là tiền của D không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho D nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với số tiền 500.000 đồng tạm giữ của Nguyễn Văn H, điều tra xác định là tiền H sử dụng để mua ma túy nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Đối với nam giới tên Đ mà D khai là người cho D ma túy ngày 03/8/2022. Đ không rõ họ, thông tin, địa chỉ cụ thể của Đ nên Cơ quan Điều tra không xác định được danh tính. Do vậy, không có căn cứ để xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với Nguyễn Văn H là người mua ma túy của D ngày 04/8/2022 với mục đích sử dụng nhưng H chưa kịp nhận, cầm ma túy để sử dụng. Bản thân H chưa bị xử phạt hành chính về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy nên hành vi của H không cấu thành tội phạm. Ngày 23/10/2022, Cơ quan điều tra - Công an huyện B đã có văn bản đề nghị UBND phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh V có biện pháp quản lý tại phường đối với H.
[6] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/8/2022).
Căn cứ khoản 1Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu huỷ mẫu vật A1= 1,7867 gam cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định; trả lại cho D số tiền 400.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của H là tiền H dùng để mua ma tuý của D; tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone thu của Nguyễn Tiến D dùng để liên lạc mua bán ma túy.
(Đặc điểm tang vật như biên bản bàn giao vật chứng ngày 10/11/2022).
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Tiến D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 145/2022/HS-ST
Số hiệu: | 145/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về