TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 140/2023/HS-ST NGÀY 07/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 140/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 140/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
T Thị S, sinh năm 1986 tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Ô, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; trình độ văn hoá: Không biết chữ; nghề nghiệp: Trồng trọt; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông T A L (đã chết) và bà Sùng Thị Ch; chồng là Giàng A C, sinh năm 1987, có 04 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/03/2023 cho đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như S:
Khoảng 16 giờ, ngày 09/3/2023, T Thị S đi làm nương tại bản Ông Lý, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi S mua được 02 viên hồng phiến và 01 gói Heroine đựng trong 01 lọ nhựa màu đen với giá 100.000 đồng, có được ma túy S chia gói Heroine thành 04 gói nhỏ rồi cất trong lọ nhựa cùng 02 viên hồng phiến mang về nhà cất giấu mục đích sử dụng và bán lẻ kiếm lời.
Sáng ngày 10/3/2023, S sử dụng hết 01 viên hồng phiến, đến khoảng 09 giờ cùng ngày S đang ở nhà một mình thì có Tráng A H đến nhà S hỏi mua ma túy để sử dụng, S đã bán cho Tráng A H 01 gói Heroine với giá 20.000 đồng, S khi bán ma túy cho H thì T Thị S đi ra ngoài sân của gia đình làm việc, còn một mình Tráng A H ngồi trong bếp sử dụng hết số ma túy đã mua được của S thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Khừa đến kiểm tra, S tự giác giao nộp số ma túy cất tại đầu giường, vật chứng thu giữ gồm: 01 lọ nhựa màu trắng bên trong đựng 03 gói màu xanh, bên trong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine và 01 viên nén mau hồng, trên bề mặt có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine.
Ngày 10/3/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng chất bột màu trắng và viên nén màu hồng thu giữ của T Thị S, kết quả như S: Gói thứ nhất được 0,97 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu S1; gói thứ hai được 0,13 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu S2; gói thứ ba được 0,08 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu S3; khối lượng viên nén màu hồng được 0,09 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu S4.
Tại Kết luận giám định số 575 ngày 14/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu S1, S2, S3 đều là ma túy; loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine; khối lượng của mẫu gửi giám định S1 = 0,97 gam, S2 = 0,13 gam, S3 = 0,08 gam. Mẫu ký hiệu S4 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,18 gam; loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine và 0,09 gam loại Methamphetamine.
Bản cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố T Thị S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo T Thị S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như S:
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T Thị S từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng: 01 vỏ niêm phong ban đầu, 01 lọ nhựa màu trắng quấn băng dính màu đen và 03 mảnh nilon màu xanh; 02 phong bì đựng Test thử ma túy của T Thị S, Tráng A H; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng bật lửa ga.
Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) đựng trong phong bì niêm phong, thu giữ của T Thị S.
Về án phí: Bị cáo cư trú ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Mộc Châu, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo S.
S khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo có lời nói S cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như S:
1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Chiềng Khừa, Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
2 Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo T Thị S khai nhận toàn bộ hành vi pham tôi cua minh như đã khai tại cơ quan Điêu tra . Số Heroine và Methamphetamine bị thu giữ có nguồn gốc: Ngày 09/3/2023 do bị cáo mua của một người phụ nữ không quen biết được 02 viên hồng phiến và 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng, có được ma túy S chia gói Heroine thành 04 gói nhỏ rồi cất trong lọ nhựa cùng 02 viên hồng phiến mang về nhà cất giấu mục đích sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Sáng ngày 10/3/2023, S sử dụng hết 01 viên hồng phiến, đến khoảng 09 giờ cùng ngày T Thị S đã bán cho Tráng A H 01 viên hồng phiến với giá 20.000 đồng, có được ma túy Tráng A H đã sử dụng hết thì bị tổ công tác kiểm tra, phát hiện bắt giữ.
Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu lập hồi 10 giờ 10 phút, ngày 10/3/2023; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 575 ngày 14/3/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine và Methamphetamine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.
3 Tội danh và khung hình phạt áp dụng: Bị cáo tàng trữ khối lượng 1,27 gam Heroine và Methamphetamine mục đích để sử dụng và bán kiếm lời, bị cáo đã bán trái phép 01 gói Heroine cho Tráng A H để thu lời 20.000 đồng, do đó T Thị S đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo la đôi tương nghiện hút chất ma tuy . Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một tHi gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng tHi mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
4 Vê hinh phat bô sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.
5 Về vật chứng:
Đối với: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng: 01 lọ nhựa màu trắng quấn băng dính màu đen, 03 mảnh nilon màu xanh và phong bì niêm phong ban đầu; 02 phong bì đựng Test thử ma túy của T Thị S, Tráng A H; 01 phong bì đựng bật lửa ga. Xét là vật không còn giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 20.000 đồng có căn cứ xác định là tiền bị cáo được hưởng lợi trong việc bán ma túy cho Tráng A H, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
6 Về các vấn đề khác:
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tráng A H, ngày 05/4/2023 Công an huyện Mộc Châu ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ, cần chấp nhận.
Đối với hành vi tự ý sử dụng trái phép chất ma túy của Tráng A H tại nhà của T Thị S, S không biết do đó S không phải chịu trách nhiệm về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó không có căn cứ điều tra làm rõ, vì vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.
7 Về án phí: Bị cáo cư trú ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Mộc Châu, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo T Thị S.
[8] Thơi han tam giam của bi cao còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam 45 ngày đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo T Thị S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo T Thị S 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. THi hạn tù tính từ ngày 10/3/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng: 01 vỏ niêm phong ban đầu, 01 lọ nhựa màu trắng quấn băng dính màu đen và 03 mảnh nilon màu xanh; 02 phong bì đựng Test thử ma túy của T Thị S, Tráng A H; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng bật lửa ga.
Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) đựng trong phong bì niêm phong, thu giữ của T Thị S.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo T Thị S.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 140/2023/HS-ST
Số hiệu: | 140/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về