Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 130/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 130/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2022; tại Nhà văn hóa Thượng Lỗi 2, phường Lộc Vượng, thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 122/2022/TLST-HS ngày 01-6-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2022/QĐXXST-HS ngày 09-6-2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Thị M - sinh năm 1993 tại tỉnh Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm Đ, xã Y, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nơi cư trú: ĐL, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Thế D và bà Phan Thị H; sống chung như vợ chồng với anh Hạ Văn T và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 26-4-2022, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 05-5-2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Đặng Tuấn Đ, chị Phạm Thị Thu H (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 05 phút ngày 26-4-2022, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 125 đường C, phường T, thành phố N phát hiện Lưu Thị M đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 18-3228 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, M tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói giấy ăn màu trắng được quấn bằng dây chun màu đen, bên trong có một túi nilong màu trắng kích thước khoảng (04 x 06) cm, trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (M khai là ma túy đá mua về để bán kiếm lời). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng ký hiệu M, đưa M và mời người làm chứng về trụ sở Công an thành phố N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của M 01 xe máy biển kiểm soát 18- 3228; 01 điện thoại di động màu đen (đều đã cũ).

Bản Kết luận giám định số 577/GĐKTHS ngày 28-4-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận vật chứng thu giữ của Lưu Thị M được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu: 2,334 gam (hai phẩy ba ba bốn gam).

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Thị M khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để bán kiếm lời và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 10 giờ ngày 26-4-2022, M đến nhà Nguyễn Viết H, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số 27 S, phường C, thành phố N (H là bạn trai của M) chơi. Sau đó, M mượn H chiếc xe máy biển kiểm soát 18-3228 mục đích để đi chơi. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, M một mình điều khiển chiếc xe máy biển kiểm soát 18-3228 đi đến khu vực đường N, thành phố N gặp một người phụ nữ tên T (là bạn xã hội của M; M không biết địa chỉ, lai lịch cụ thể của T). M hỏi mua chịu của T 1.000.000 đồng tiền ma túy đá mục đích để bán kiếm lời. T đồng ý bán và cho M nợ tiền mua ma túy. Sau đó, T đưa cho M 01 gói ma túy tổng hợp dạng "đá" để bên trong 01 túi nilong màu trắng có kích thước khoảng (04 x 06) cm. M cầm gói ma túy rồi lấy tờ giấy ăn màu trắng quấn gói ma túy lại và buộc bằng dây chun màu đen. Sau đó, M điều khiển xe máy đi về, khi M đi đến khu vực trước cửa số nhà 125 đường C, phường T, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên. M khai nhận nếu gặp khách thì M sẽ bán gói ma túy bị thu giữ với giá 1.100.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 126/CT-VKSTPNĐ ngày 30-5-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Lưu Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Lưu Thị M xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi mua ma túy về để bán kiếm lời là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do hám lợi nên đã tàng trữ với mục đích bán kiếm lời. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lưu Thị M theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lưu Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng đến 05 (lăm) năm tù; áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng thu giữ của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Lưu Thị M có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 05 phút ngày 26-4- 2022, tại khu vực trước cửa số nhà 125 đường C, phường T, thành phố N, Lưu Thị M đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,334 gam Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng dưới mức đề xuất của Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo bán ma túy với mục đích kiếm lời bất chính nên Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 577/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động màu đen (đã cũ) là tài sản của bị cáo Lưu Thị M, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Lưu Thị M và chiếc xe máy biển kiểm soát 18-3228, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Lưu Thị M bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lưu Thị M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lưu Thị M 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 26 tháng 4 năm 2022.

- Phạt tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 577/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo Lưu Thị M 01 điện thoại di động màu đen (đã cũ), song tạm giữ để đảm bảo thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 31-5-2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lưu Thị M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lưu Thị M được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 130/2022/HS-ST

Số hiệu:130/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về