Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 110/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 110/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2022/TLST - HS ngày 04 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: T.V.Đ, sinh năm 2002, tên gọi khác: không; hộ khẩu thường trú tại: khu 7, xã Đông Lĩnh, huyện T.B, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở: số 6 ngách 179/78, tổ 27, phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: sinh viên; họ tên bố: T.N.Đ, sinh năm 1975; họ tên mẹ: C.T.Đ, sinh năm 1983; gia đình bị can có 02 anh em bị can là con thứ nhất. Nhân thân bị cáo: không tiền án, không tiền sự.

Bắt quả tang ngày 22/12/2021, đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội truy tố: Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 22/12/2021, tại đối diện số nhà 167 phố T, phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, tổ công tác công an phường Thanh Trì kiểm tra T.V.Đ nghi có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên đã kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã tiến hành thu giữ trên tay phải của Đại 02 túi nilong màu trắng kích thước đều nhau khoảng (1.5x1.5) cm, bên trong đều chứa các cục tinh thể màu trắng và 03 viên nén màu xanh. Tại chỗ, Đại khai nhận là ma túy Kẹo và Ke đang mang đi bán hộ cho đối tượng tên Huy có chỗ ở tại tầng 6 phòng 611 tòa A chung cư 75, đường Ta, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, hưởng tiền công là 150.000 đồng. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của Đại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh dương và số tiền 300.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa Đại cùng toàn bộ tang vật về trụ sở để điều tra làm rõ.

Tại cơ quan Công an, T.V.Đ khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 22/12/2021, Đại đến gặp Huy có số di động là 0366742X tại phòng 611 tòa A chung cư 75, đường Ta, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Tại đây, Huy nhờ Đại đi giao ma túy cho khách có số điện thoại 0925029619 tại địa chỉ số 169, phố Thanh Lâm và nhận 4.150.000 đồng về cho Huy, trong đó Huy được lấy tiền công 150.000 đồng. Đại biết Huy bán ma túy nên đã nhận đi giao hộ để lấy tiền công. Sau đó, Đại nhận số ma túy nêu trên và bắt taxi đi đến số 169, phố Thanh Lân để giao cho khách, khi đang đứng trước số 169, phố Thanh Lân thì bị công an bắt giữ cùng tang vật như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 9346/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilong đều là ma túy Ketamine tổng khối lượng 1,406 gam; 03 viên nén màu xanh, hình trụ có tổng khối lượng 1,305 gam, đều là ma túy loại MDMA.

Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại Redmi màu xanh dương của Đại có cuộc gọi liên lạc với số thuê bao 0243825X5 và số 0329571X là số của xe taxi đón Đại; và số liên lạc lưu số 0366742X của Huy, lưu là H; phần facebook có liên hệ với tài khoản Dương Huy, cơ quan điều tra đã tiến hành trích sao và có bản chụp ảnh điện thoại đưa vào hồ sơ vụ án.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa chỉ tại tầng 6 phòng 611 tòa A chung cư 75, đường Ta, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội về đối tượng Huy là người đưa ma túy cho T.V.Đ đi bán, nhưng tại đây không xác định được. Vì, Huy không sinh sống thực tế tại địa chỉ này, mà chỉ đến nhà anh Bùi Văn Tuấn (sinh năm 2002; trú tại Số nhà 38 ngõ A L, phường Mai Động, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Anh Tuấn cho biết là bạn xã hội của Đại và Đại cùng Huy đến Phòng 611 trên để chơi. Anh Tuấn không biết việc Đại và Huy giao dịch mua bán ma túy với nhau như thế nào. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh số điện thoại 0366742X của Huy nhưng được xác định người đứng tên đăng ký sử dụng số điện thoại trên là anh Giang Cao L (SN 2000; Trú tại: Đ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), anh Lâm cho biết không còn sử dụng số điện thoại nêu trên và không liên lạc với ai là Đại để mua bán ma túy. Ngoài lời khai của Đại về đối tượng, không có căn cứ xác định được đối tượng Huy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để tiếp tục xác minh, xử lý.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKS-HM, ngày 29/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo T.V.Đ về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Tại phiên tòa: Bị cáo T.V.Đ thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo T.V.Đ như Bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: T.V.Đ từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilong đều là ma túy Ketamine tổng khối lượng 1,406 gam; 03 viên nén màu xanh, hình trụ có tổng khối lượng 1,305 gam, đều là ma túy loại MDMA; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Redmi màu xanh dương do bị cáo sự dụng vào việc thực hiện tội phạm; trả lại bị cáo 300.000đ vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Phần tranh luận tại phiên tòa, bị cáo T.V.Đ thừa nhận Kiểm sát viên luận tội đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với mình là đúng, nên không tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Lời nói sau cùng của bị cáo: “Bị cáo rất hối hận, biết về lỗi lầm của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi nguy hiểm của bị cáo bị truy tố:

Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều Công an quận Hoàng Mai; Kết luận giám định số 9346/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội cùng các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 22/12/2021, tại đối diện số nhà 167 phố Thanh Lân, phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội tổ công tác công an phường Thanh Trì bắt quả tang bị cáo T.V.Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là ma túy, loại Ketamine tổng khối lượng 1,406 gam và MDMA có khối lượng 1,305 gam, mục đích để bán kiếm lời.

Hành vi nêu trên của bị cáo T.V.Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, nội dung điều luật quy định: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Bị cáo T.V.Đ, sinh năm 2002 là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Xác định hành vi nguy hiểm của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác; gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự xã hội. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có nhân thân tốt, không tiền án, không tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã làm rõ: bố của bị cáo được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu thi đua, như: Bằng khen của Chánh án Tòa án nhân dân tôi cáo vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác Hội thẩm nhân dân tại Tòa án huyện T.B, tỉnh Phú Thọ; Giấy khen trong công tác Bầu cử đai biểu Quốc hội... Thêm nữa, bà nội bị cáo được Chủ tịch nước tăng thưởng “Huân chương kháng chiến hạng Nhất” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (có tài liệu, chứng cứ kèm theo hồ sơ vụ án). Mặt khác, tại phiên tòa: trước Hội đồng xét xử, bà nội và bố mẹ của bị cáo... bị cáo đã tỏ rõ sự ăn năn hối cải muốn làm lại cuộc đời, muốn được sớm trở lại trường học... Vì vậy, Hội đồng xét xử cần mở lượng khoan hồng, áp dụng chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ hơn nữa hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét bị cáo T.V.Đ đang là sinh viên, không có thu nhập nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về áp dụng Biện pháp tư pháp: Khi bắt quả tang bị cáo T.V.Đ có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Công an thu giữ: 1,406 gam Ketamine và 1,305 gam MDMA; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh dương và 300.000 đồng. Khi giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử cần căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định, cần: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy nêu trên, vì là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; tịch thu sung ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động, do bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm; trả lại bị cáo 300.000đ do không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với người (đối tượng Huy) giao ma túy cho bị cáo Đại đi bán, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai không xác định được danh tính, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo T.V.Đ 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ khi bắt quả tang ngày 22 tháng 12 năm 2021.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Biện pháp tư pháp:

3.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niêm phong bên trong có chứa 1,406 gam Ketamine và 1,305 gam MDMA;

3.2. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh dương;

Toàn bộ vật chứng nêu tại mục 3.1, 3.2 này hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, theo Biên bản và Phiếu nhập kho vật chứng số: NK 2022-01243 ngày 29/3/2022.

3.3. Trả lại bị cáo T.V.Đ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Số tiền này, đang nộp tại Kho bạc Nhà nước quận Hoàng Mai tài khoản số 394901048098 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 24/12/2021.

4. Về án phí: Bị cáo T.V.Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo T.V.Đ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 110/2022/HS-ST

Số hiệu:110/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về