Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Thị H, sinh ngày 02/3/1978 tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Thôn Đ, xã N, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Vi Thị S; Có chồng là Hoàng Văn V (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2006; Tiền sự, tiền án: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Đến ngày 30/12/2021, chuyển tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

Người làm chứng: Vi Văn L - Sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/9/2021, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân tiến hành tuần tra, kiểm soát trên tuyến đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận thôn Đức Thắng, xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân phát hiện đối tượng Vi Văn L, sinh năm 1993 ở thôn Tiến Thành, xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra L. Quá trình kiểm tra, L đã tự nguyện lấy trong túi áo ngực bên trái đang mặc 02 gói giấy nhỏ màu trắng, có chữ màu đen, bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà giao nộp cho Cơ quan Công an. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ, niêm phong toàn bộ số ma túy, đồ vật tài liệu có liên quan.

Tại Cơ quan điều tra, Vi Văn L khai nhận: Do bản thân là người nghiện ma túy nên vào khoảng 08 giờ 45 phút, ngày 17/9/2021, L gọi điện thoại cho Lê Thị H, sinh năm 1978 ở thôn Đức Thắng, xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân hỏi mua ma túy. Do H đồng ý bán nên L đã đến nhà H và mua của H 02 gói ma túy với giá 300.000đ (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, có số seri: OK 143542289, số 89 được khoanh tròn bằng mực màu đen; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, có số seri: WM 11976746, số 11 được khoanh tròn bằng mực màu đen). Sau khi mua được ma túy, L cất vào túi áo ngực, vừa đi ra ngoài cửa nhà H thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ, niêm phong số ma túy trên, cùng đồ vật, tài liệu có liên quan.

Từ căn cứ nêu trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Như Xuân đã ra lệnh khám xét khẩn cấp số: 15/L-CSĐT ngày 17/9/2021, để khám xét khẩn cấp người và chỗ ở của Lê Thị H tại thôn Đức Thắng, xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân. Quá trình khám xét phát hiện:

- Tại vị trí bàn tay phải của H có 300.000đ (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, có số seri: OK 143542289, số 89 được khoanh tròn bằng mực màu đen; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, có số seri: WM 11976746, số 11 được khoanh tròn bằng mực màu đen);

- Tại vị trí bên trong áo ngực bên trái của H phát hiện và thu giữ 200.000đ, có số seri: XL 14937244;

- Tại vị trí cách chân tường 30cm của cửa phụ phía sau nhà ở của H phát hiện 01 gói giấy màu trắng, có chữ màu đen, bên trong đều chứa chất bột màu trắng ngà, nghi là ma túy (Heroine);

- Tại vị trí khu vườn phía sau nhà ở của H, cách nhà ở khoảng 02m phát hiện 03 gói giấy màu trắng, có chữ màu đen, bên trong đều chứa chất bột màu trắng ngà, nghi là ma túy (Heroine);

- Tại vị trí vali quần áo màu đen đặt trên nóc tủ quần áo của H phát hiện số tiền 2.900.000đ;

- Tại vị trí giường ngủ của H phát hiện 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị rạn nứt nham nhở, có gắn SIM số 0388.xxx.438;

- Tại vị trí bàn uống nước trong nhà H phát hiện 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng, có gắn SIM số 0862.294.288.

Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản và thu giữ, niêm phong số ma túy trên cùng đồ vật, tài liệu có liên quan.

Ngày 17/9/2021, Cơ quan điều tra - Công an huyện Như Xuân đã Quyết định trưng cầu giám định số 84/QĐTC đối với số tang vật thu giữ nghi là ma túy của Vi Văn L và Lê Thị H. Tại bản kết luận giám định số 2929/PC09 ngày 20/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Chất bột màu trắng ngà của phong bì niêm phong ký hiệu M1 (thu giữ của L) gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,048g, loại Heroine;

- Chất bột màu trắng ngà của phong bì niêm phong ký hiệu M2 (thu giữ của H) gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,264g, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị H khai nhận: Vào ngày 16/9/2021, H xin đi nhờ xe của một người đi đường không quen biết đến ngã ba thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa gặp một người đàn ông lạ mặt không quen biết hỏi mua ma túy (Heroine) với giá 200.000đ, người này cầm tiền và đưa cho H 01 gói ma túy. H cầm gói ma túy trên về nhà chia thành 06 gói nhỏ để tiện cho việc bán kiếm lời. Đến khoảng 08 giờ 45 phút ngày 17/9/2021, H đã bán 02 gói ma túy cho Vi Văn L với giá 300.000đ, vừa bán xong, L đi ra đến cửa nhà H thì bị Công an bắt quả tang, H nhìn thấy sợ quá nên vứt 04 gói ma túy ra khu vườn sau nhà, trong đó 01 gói bị rơi gần chân tường ở cửa phụ sau nhà, còn 03 gói rơi ở vườn phía sau nhà H, cách nhà ở 02m. Sau đó, Công an khám xét thu giữ trên tay của H số tiền 300.000đ là tiền H vừa bán ma túy cho L mà có, đồng thời thu giữ số ma túy trên cùng đồ vật, tài liệu có liên quan.

Đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Vi Văn L: Quá trình điều tra xác định, L chưa có tiền sự, tiền án về tội phạm liên quan đến nhóm tội phạm về ma túy, tổng khối lượng ma túy L mua của H là 0,048g, loại Heroine. Do đó, hành vi của L không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Công an huyện Như Xuân đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Về người đã bán ma túy cho H vào ngày 16/9/2021 tại thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống. Do H không cung cấp được thông tin về họ, tên, địa chỉ người này nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để tiến hành điều tra mở rộng vụ án.

* Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Lê Duy Tâm, Trần Thị Thúy Hằng và 07 hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; Phong bì đề: “CA Như Xuân TC84 Lê Thị H”; Bên trong phong bì là ma túy, vật chứng của vụ án sau giám định;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng, có gắn SIM số 0862.294.288; Là chiếc điện thoại mà H dùng để liên lạc và bán ma túy cho L vào hồi 08 giờ 45 phút ngày 17/9/2021;

- 01 phong bì thư do Công an huyện Như Xuân phát hành, ghi chữ “M3 (tiền VNĐ = 500.000đ)” được dán kín, bấm ghim các góc, được niêm phong bởi các chữ ký, chữ viết đề tên: Lê Anh Tuấn, Lê Quảng Quang, Lê Văn Tứ, Lê Thị H, Nguyễn Đức Dương và 05 hình dấu của Công an xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân; Bên trong phong bì là số tiền 500.000đ gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, có số seri: OK 143542289, số 89 được khoanh tròn bằng mực màu đen; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, có số seri: WM 11976746, số 11 được khoanh tròn bằng mực màu đen và 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, có số seri: XL 14937244; Hiện đang được ký gửi tại Kho bạc nhà nước huyện Như Xuân.

Đều đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân chờ xử lý.

- Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị rạn nứt nham nhở, có gắn SIM số 0388.xxx.438 và số tiền 2.900.000đ thu giữ khi khám xét nơi ở của H; Qua xác minh, chiếc điện thoại và số tiền trên là của H, do H lao động tích góp mà có, không liên quan đến quá trình phạm tội của H; Vào ngày 01/10/2021, H đã ủy quyền cho Lưu Thị T, sinh năm 1985 ở thôn Mó 2, xã Cán Khê, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa nhận số tiền và tài sản trên; Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền và tài sản đã nêu theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, có số Imei 865652059037830, Imei2 865652059037822, gắn SIM số 0378.474.879, đã qua sử dụng, thu giữ của L khi bắt quả tang; Quá trình điều tra xác định, đây là điện thoại của Vi Văn T, sinh năm 1992 ở thôn Tiến Thành, xã Thượng Ninh, huyện Như Xuân (là anh ruột của L) cho L mượn để sử dụng vào sáng ngày 17/9/2021, T không biết L dùng chiếc điện thoại này để liên lạc mua ma túy với H; Do đó, Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại chiếc điện thoại trên cho chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 07/CT-VKSNX ngày 28/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân truy tố Lê Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Lê Thị H đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H với mức án từ 27 đến 30 tháng tù.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa và không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Như Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

[2.1] Do động cơ vụ lợi nên vào ngày 16/9/2021, Lê Thị H đã đến khu vực ngã ba thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá gặp một người đàn ông không quen biết mua 01 gói ma tuý với giá 200.000đ về chia thành 06 gói nhỏ để bán kiếm lời. Vào khoảng 08 giờ 55 phút ngày 17/9/2021, H bán cho Vi Văn L 02 gói ma túy nhỏ, có tổng khối lượng là 0,048g, loại Heroine với giá 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, L cất trong túi áo ngực, đi ra khỏi nhà H thì bị Công an huyện Như Xuân bắt quả tang. Khám xét người và chỗ ở của H, Công an còn thu giữ thêm 04 gói ma túy, có tổng khối lượng là 0,264g, loại Heroine mà H đang tàng trữ để bán. Lời khai của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung của bản Cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2.2] Bị cáo Lê Thị H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS.

[3] Xét tính chất của vụ án: Đây là vụ án hình sự “Mua bán trái phép chất ma túy” có tính chất nghiêm trọng do đối tượng Lê Thị H thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn nghiện hút ma túy là một trong những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của tệ nạn ma túy và việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi mà bị cáo đã cố tình phạm tội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Lê Thị H là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo; Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Lê Thị H như đã nêu trên, cần có đường lối xử lý nghiêm minh đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa, răn đe tội phạm nói chung, đồng thời việc cách ly xã hội đối với bị cáo một thời gian là cần thiết. Nhưng khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt chính và miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) cho Lê Thị H để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

[6] Về vật chứng:

[6.1] Đối với 0,277 gam ma túy, loại Heroine (còn lại sau giám định) là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

[6.2] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng, có gắn SIM số 0862.294.288 là pH tiện phạm tội của Lê Thị H; Số tiền 300.000đ H đã bán 02 gói ma túy cho Vi Văn L là tiền do bị cáo phạm tội mà có, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

[6.3] Đối với số tiền 200.000đ còn lại thu giữ tại áo ngực của Lê Thị H là tiền thuộc sở hữu của H, không phải là vật chứng của vụ án, vì vậy trả lại cho bị cáo. Giao số tiền trên cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân quản lý để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Thị H là người bị kết án nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Thị H được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 46; Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, các điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H 30 (ba mươi) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2021.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,277 gam ma túy, loại Heroine (còn lại sau giám định); Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, có gắn SIM số 0862.294.288 và số tiền 300.000 đồng; Trả lại cho Lê Thị H số tiền 200.000 đồng. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số:

15/2022/TSVC ngày 11/01/2022 giữa Công an huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Giao số tiền 200.000 đồng trên cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa quản lý để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án của Lê Thị H.

Án phí: Bị cáo Lê Thị H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về