Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN - TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 100/2022/HS-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị Ánh H, giới tính: Nữ, sinh năm 1995 tại tỉnh Đ; Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Tạm trú: Căn hộ 0916-Blok A, chung cư Lamer 1, phường Q, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Thợ làm Nail; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và bà Lê Thị P, sinh năm 1973; Chồng: Võ Văn H (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn.

2. Họ và tên: Trần Thị L, giới tính: Nữ, sinh năm 1998 tại tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn A, xã An T, huyện K, tỉnh Gia Lai; Tạm trú: Căn hộ 0916-Blok A, chung cư Lamer 1, phường Q, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Thợ làm Nail; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn B, sinh năm 1972 và bà Hồ Thị Kim T, sinh năm 1971; Chồng: Trần Thế V (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn.

3. Họ và tên: Trần Thị Ngọc T, giới tính: Nữ, sinh ngày 08/01/2003 tại tỉnh A; Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; Tạm trú: Căn hộ 0916- Blok A, chung cư Lamer 1, phường Q, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Thợ làm Nail: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Phú T, sinh năm 1971 và bà Cao Thị Y (chết); Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa

- Người bào chữa:

Ông Nguyễn Văn K – Luật sư của văn phòng luật sư Văn K thuộc đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H do gia đình bị cáo tự mời (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn T, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A, đường B, phường T, TP. Q, tỉnh Bình Định.

- Người tham gia tố tụng khác:

Anh Trần Bình A, anh Nguyễn Hoàng L, anh Nguyễn Hoàng V, anh Mai Trần Việt H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2021, Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T thuê căn hộ 0916-Block A, chung cư Lamer 1, P. Q, TP. Q để ở. Để có tiền tiêu xài, H nảy sinh ý định mua ma túy về phân chia thành nhiều gói nhỏ và rủ L, T bán ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 27/9/2021, H liên lạc với thanh niên tên Phi (không rõ lai lịch) mua ma túy khay với giá 5.000.000 đồng và 05 viên ma túy kẹo giá 300.000 đồng/viên. Sau đó, H nói L, T đến công viên Hoa Lư, P. Đống Đa, TP. Q để nhận ma túy. Sau khi nhận được ma túy, L và T đem về căn hộ đưa cho H và cả ba cùng phân chia gói ma túy khay thành 04 gói ma túy. Sau khi phân chia, H là người cất giữ số ma túy tại căn hộ, khi nào khách có nhu cầu thì bán.

Đến khoảng 20 giờ ngày 30/9/2021, Mai Trần Việt H liên lạc với H mua 01 gói ma túy khay với giá 3.000.000 đồng và 05 viên ma túy kẹo giá 350.000 đồng/viên để sử dụng. H đưa số ma túy và nói L, T đem xuống để dưới chân trụ điện gần lối ra vào chung cư Lamer 1. Sau đó, H tự đến lấy ma túy rồi về sử dụng hết. Đến ngày 01/10/2021, H đưa 4.750.000 đồng tiền mua ma túy cho Hồng tại chung cư Lamer 1, H thu lợi số tiền 2.000.000 đồng, chia cho T và L mỗi người 200.000 đồng.

Khoảng 18 giờ ngày 05/10/2021, Nguyễn Hoàng L, Nguyễn Hoàng V là bạn trai của H và L đến căn hộ 0916 để chơi và ăn uống. Sau đó, H vào phòng ngủ của mình lấy 01 gói ma túy cho vào đĩa sứ để sử dụng một mình. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. Q phối hợp Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Định kiểm tra hành chính căn hộ 0916 thì phát hiện trên nền nhà gần cửa ra ban công phía sau căn hộ có 01 bì nilon màu đen bên trong có 03 (ba) gói nilon chứa các hạt tinh thể và tại vị trí trên bàn trang điểm trong phòng ngủ phát hiện 01 chiếc đĩa sứ hình tròn màu trắng bên trên có các hạt tinh thể, tất cả nghi là ma túy. Tổ công tác đã tiến hành tạm giữ, niêm phong toàn bộ chất nghi là ma túy đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, L, T.

Ngày 08/10/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định có Kết luận giám định số 103/PC09:

+ Các hạt tinh thể màu trắng đựng bên trong 01 gói nilon ký hiệu A1 gửi giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy, có khối lượng 0,2014 gam.

+ Các hạt tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3438gam loại Ketamine.

+ Các hạt tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5791gam loại Ketamine.

+ Các hạt tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon ký hiệu A4 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1237gam loại Ketamine.

(Ketamine nằm trong danh mục chất ma túy và tiền chất có thứ tự là 35, danh mục III, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ) Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn hiện đang tạm giữ:

- 01 bì thư dán kín niêm phong 05 dấu tròn của “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định”, có chữ ký của Lê Tuấn T, Ngô Đình B và Nguyễn Thành T (tất cả đều 01 chữ ký), bên ngoài bì thư ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0936 gam mẫu A1;

0,1262 gam mẫu A2; 0,2858 gam mẫu A3 và 0,0369 gam mẫu A4 còn lại sau giám định.

- 02 chiếc cân điện tử, đã qua sử dụng.

- 01 đĩa sứ hình tròn, màu trắng, đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max mặt sau màu vàng có số IMEI 1: 357265097108185, số IMEI 2: 357265097180747, gắn sim số 0359.575.372, đã qua sử dụng.

Bản Cáo trạng số 16/CT - VKSQN ngày 11 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Cáo trạng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ánh H từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Trần Thị L từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Đề nghị HĐXX truy thu bị cáo Nguyễn Thị Ánh H 2.000.000 đồng, tiền thu lợi bất chính để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 2.000.000 đồng do gia đình bị cáo Tuyền nộp để đảm bảo thi hành án.

- Xử lý vật chứng:

+ Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu tiêu hủy bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 02 cái cân, 01 cái đĩa sứ.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H: Một điện thoại di động hiệu Iphone XS Max, sim của điện thoại thì tịch thu tiêu hủy.

- Các bị cáo tự bào chữa: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa.

- Luật sư Nguyễn Văn K bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H và bị cáo H bào chữa bổ sung: Thống nhất với tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, mong HĐXX xem xét: Bị cáo ly hôn chồng và nuôi con còn nhỏ, do kinh tế gia đình khó khăn bị cáo phải gửi con cho cha, mẹ để đến Quy Nhơn làm nghề Nail kiếm tiền gửi về nhà nuôi con. Do trong thời gian dịch bệnh Covid-19, bị cáo thất nghiệp không có tiền nuôi con, suy nghĩ không đến đã nảy sinh ý định buôn bán ma túy để lấy lời, đây là lần đầu tiên bị cáo phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo tốt, trước đây chưa vi phạm gì, gia đình bị cáo có công cách mạng, ông nội và cha bị cáo tham gia kháng chiến, cha bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương chiến sỹ vẻ vang. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm i, s, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ánh H từ 12 tháng đến 15 tháng tù cũng đủ cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Để có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo Nguyễn Thị Ánh H rủ các bị cáo Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T tham gia bán ma túy giúp bị cáo, vào ngày 27/9/2021 bị cáo Nguyễn Thị Ánh H đã liên lạc mua 01 gói ma túy khay và 05 viên ma túy kẹo của người tên Phi (không xác định dược lai lịch) và nhờ các bị cáo L, Tuyền đến công viên hoa Lư, TP. Quy Nhơn lấy ma túy và giao lại cho bị cáo H. Sau khi có được ma túy, các bị cáo đã chia ma túy khay thành 04 gói nhỏ để bán. Vào ngày 30/9/2021, bị cáo H đã nhờ bị cáo L, T đem ma túy bán cho Mai Trần Việt H gồm 01 gói ma túy khay và 05 viên ma túy kẹo với giá 3.350.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền 2.000.000 đồng. Đến ngày 05/10/2021, tổ công tác kiểm tra hành chính căn hộ 0916-Blok A, chung cư Lamer 1 và phát hiện, bắt quả tang các bị cáo đang tàng trữ 1,0466 gam ma túy là loại Ketamine nhằm mục đích bán lại cho người khác.

Các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T có đầy đủ sức khỏe, năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải biết tác hại rất lớn của ma túy gây ra cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm nên việc cất giữ, mua bán, sử dụng các chất ma túy phải theo quy định đặc biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhưng do tham lam, cần tiền tiêu xài các bị cáo đã mua ma túy với giá thấp bán lại giá cao để hưởng lợi bất chính. Các bị cáo đã bán ma túy 01 lần, khi bắt giữ các bị cáo thu giữ số ma túy mà các bị cáo nhằm để bán có khối lượng là 1,0466 gam là loại Ketamine. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Trong vụ án có 03 bị cáo tham gia, với vai trò đồng phạm giản đơn cùng thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo Nguyễn Thị Ánh H tham gia với vai trò chính mua ma túy về bán lại để thu lợi, rủ rê, xúi giục bị cáo Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T tham gia bán ma túy cho bị cáo. Đối với các bị cáo Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T giúp cho bị cáo H bán ma túy nên phạm tội với vai trò giúp sức. Do đó phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi đã gây ra.

[3] Xét lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H được HĐXX xem xét đầy đủ toàn diện, HĐXX sẽ cân nhắc khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên luật sư đề nghị cho bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i và điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không đúng nên HĐXX nên không chấp nhận.

[4] Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Xét về nhân thân; tình tiết tăng nặng; giảm nhẹ của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, trước đây chưa vi phạm gì. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn, thể hiện ăn năn hối cải, gia đình bị cáo H có công cách mạng, cha bị cáo tham gia quân đội được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương chiến sỹ vẻ vang, gia đình bị cáo H đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, các bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L đang nuôi con còn nhỏ, bị cáo Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T tham gia trong vụ án với vai trò thứ yếu nên xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ số ma túy còn lại sau giám định; Vỏ, bao bì dùng để đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 02 cái cân, 01 đĩa sứ và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS Max. Xét thấy ma túy do Nhà nước cấm lưu hành nên số ma túy còn lại sau giám định bị tịch thu tiêu hủy (kể cả vỏ bao bì đựng ma túy, cái cân là dụng cụ mua bán ma túy và cái đĩa dùng để sử dụng ma túy). Đối với điện thoại di động bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, bị cáo sử dụng sinh hoạt cá nhân và không liên quan đến việc mua bán ma túy nên trả điện thoại lại cho bị cáo H.

[7] Về truy thu sung vào Ngân sách Nhà nước: Bị cáo Nguyễn Thị Ánh H bán ma túy thu lợi bất chính số tiền 2.000.000 đồng nên truy thu số tiền trên của bị cáo H để sung vào ngân sách Nhà nước. Tạm giữ số tiền 2.000.000 đồng do gia đình bị cáo H nộp để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí: Các bị cáo bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về vấn đề khác:

Đối với người nam tên Phi (không rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch nên tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý sau theo quy định pháp luật.

Đối với Mai Trần Việt H mua ma túy của các bị cáo để sử dụng và đã sử dụng hết số ma túy này. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn không xử lý hình sự và chuyển hồ sơ cho Công an TP. Quy Nhơn để xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Ánh H, Trần Thị L, Trần Thị Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ánh H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

3. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2021.

4. Xử lý vật chứng và truy thu nộp ngân sách Nhà nước: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) bì thư dán kín niêm phong 05 dấu tròn của “Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định, có chữ ký của Lê Tuấn T, Ngô Đình B, Nguyễn Thành T (tất cả đều có 01 chữ ký), bên ngoài bì thư ghi: Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0936 gam mẫu A1, 0,1262 gam mẫu A2; 0,2858 gam mẫu A3 và 0,0369 gam mẫu A4 còn lại sau giám định.

+ 02 chiếc cân điện tử, đã qua sử dụng.

+ 01 đĩa sứ hình tròn, màu trắng, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Ánh H: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max mặt sau màu vàng số IMEI 1: 357265097108185, số IMEI 2:

357265097180747, gắn sim số 0359575372, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Quy Nhơn).

- Truy thu của Nguyễn Thị Ánh H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) do gia đình bị cáo Nguyễn Thị Ánh H nộp tại Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn để đảm bảo thi hành án (biên lai thu tiền số 0001411 lập ngày 01/4/2022).

5. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

Số hiệu:100/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về