Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/4/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2023/HSST ngày 27/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2023/QĐXXST-HS ngày 11/4/2023 đối với bị cáo:

Trần Văn L, sinh năm 1997; STQ tại: Thôn Đ, xã H, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt N; con ông Trần Văn N, sinh năm 1968 và con bà Đinh Thị P, sinh năm 1970; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/11/2022 đến ngày 12/11/2022 chuyển tạm giam.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

* Người làm chứng:

1/ Anh Phạm Văn T, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn D, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

2/ Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn D, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

3/ Anh Nguyễn T D, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau: Vào lúc 19 giờ 50 phút, ngày 02/11/2022, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân nghi vấn quán Karaoke Gang N có khách hát sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện Nga Sơn đã phối hợp Công an xã N tiến hành kiểm tra. Tại phòng hát Vip2 có 04 người, gồm: Phạm Văn T, sinh năm 1979 ở Thôn D, xã N; Nguyễn Văn N, sinh năm 1990,ở thôn D, xã N; Nguyễn Ánh N, sinh năm 2002, ở Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh; Nguyễn Thị My, sinh năm 2003, ở xã Nghi Điền, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Công an yêu cầu những người này xuất trình giấy tờ, đồ vật để kiểm tra, công an phát hiện thu giữ 01 mảnh viên nén màu xám trong túi quần bên trái phía trước của Phạm Văn T. T khai nhận đây là ma túy dạng kẹo, T mua của Trần Văn L, là nhận viên phục vụ quán Giang N, giá mua là 1.000.000đ nhưng chưa sử dụng hết.

Tiến hành khám xét khẩn cấp quán Gang N, lực lượng Công an phát hiện thu giữ trong túi quần bên trái phía trước chiếc quần vải màu nâu treo trong nhà vệ sinh tầng 1 có 01 hộp catton hình trụ tròn, đường kính khoảng 05cm, cao khoảng 10cm, bên trong có dòng chữ “AJMAL’, trong hộp có 04 viên nén hình tròn, màu xám; 01 túi nilon kích thước (5 x3)cm bên trong chứa 13 viên nén hình tròn, màu vàng nhạt; 01 túi nilon kích thước (5 x5)cm, bên trong có chứa 05 túi nilon (mỗi túi có kích thước (2 x2)cm đều chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra, công an còn thu giữ của quán Karaoke Gang nam 01 đầu thu giữ liệu camera nhãn hiệu @jhua màu trắng để phục vụ công tác điều tra; Trần Văn L tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, gắn sim số 0345355X và số tiền 1.000.000đ (gồm hai tờ mệnh giá 500.000đ).

Sáng ngày 03/11/2022, Trần Văn L làm việc với Cơ quan Điều tra Công an huyện Nga Sơn đã nhận thức được hành vi sai phạm và xin đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phạm Văn T tối ngày 02/11/2022. Ngoài lần phạm tội này, L khai còn bán cho T vào ngày 28/10/2022 tại quán hát Gang N, gồm 02 viên ma túy dạng kẹo và nửa chỉ ma túy dạng ke với giá 2.750.000đ.

Đối với mẫu vật trong hộp catton và chiếc quần vải màu nâu, L khai quần là của L, còn các viên nén, chất tinh thể là chất ma túy dạng kẹo, ke của Trần Anh T, sinh năm 1999; ở B, N. Tối ngày 01/11/2022, T mang số ma túy này bỏ vào túi quần của L treo trong nhà vệ sinh tầng 1 quán Gang N nhờ L bán hộ với giá 400.000đ/1 viên ma túy dạng kẹo và 3.300.000đ/1 chỉ ma túy dạng ke. Ngoài ra, ngày 31/10/2022, L mau của T 01 viên ma túy dạng kẹo và đã sử dụng hết cho mình.

Kết quả điều tra xác định: Năm 2021, L đến quán Gang N làm thuê cho bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971. Công việc là dọn dẹp phòng hát, đón khách, xếp phòng, chuẩn bị đồ uống cho khách hát. Công việc làm thường về khuya nên L thường ăn ngủ tại quán hát. Trong thời gian làm việc, L quen nhiều khách hát là người sử dụng chất ma túy nên L nảy sinh ý định mua bán trái phép chất ma túy để lấy tiền lời chi tiêu cá nhân. L đã bán trái phép cho T 02 lần:

- Lần 1 khoảng 22 giờ ngày 28/10/2022, T đi cùng một người tên Hiếu đến hát tại phòng Vip1. Trong khi hát T có nhu cầu sử dụng ma túy nên đi ra gặp L hỏi mua 02 viên ma túy dạng kẹo (MDMA) và nửa chỉ ma túy Ketamine. L đồng ý bán. Sau đó, L đi vào phòng hát Vip1 đưa cho T số ma túy, T đưa L số tiền 2.755.000đ. Số ma túy T sử dụng tại phòng hát một phần, một phần mang về nhà đã sử dụng hết; số tiền L bán ma túy cho T cũng đã chi tiêu hết.

- Lần 2: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 02/11/2022, T đi cùng N đến quán Gang N hát Karaoke. Thời điểm này L đang ở nhà tại xã H, Hà Trung ăn cơm tối nên anh T D (con trai bà H) bố chí cho T và N vào phòng hát Vip2 và gọi cho L đến quán phục vụ khách hát. Sau đó, L được Phùng Thị Hà, nhân viên quán hát đến đón về quán làm việc. Khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày, T đến quầy lễ tân hỏi L mua 02 viên ma túy dạng kẹo, L đồng ý bán và nói T đợi nên T quay vào phòng hát. Lúc sau, L mang vào 02 viên ma túy dạng kẹo để trên nắp lon nước ngọt đến trước phòng hát Vip2. T đi ra, L nói hết 1.000.000đ, T trả tiền cho L (2 tờ mệnh giá 500.000đ) rồi cầm hai viên ma túy đi vào phòng hát. T sử dụng một phần ma túy, số còn lại đang cất giấu trong túi quần trước bên trái thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nga Sơn ra quyết định trưng cầu giám định đối với mẫu vật nghi là ma túy.

Tại kết luận giám định số 3896/KL-KTHS, ngày 09/11/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: mảng viên nén màu xám (thu giữ của Trần Văn T), gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,038g (không phẩy không ba tám gam), loại MDMA; 04 viên nén hình tròn, màu xám của hộp catton gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,563g (một phẩy năm sáu ba gam), loại MDMA; 13 viên nén hình tròn, màu vàng nhạt của hộp catton gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 5,389g (năm phẩy ba tám chín gam), loại MDMA; chất tinh thể màu trắng của hộp catton gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 4,Xg (bốn bẩy bẩy một gam), loại Ketamine.

Nguồn gốc ma túy: L bán cho T vào ngày 28/10/2022 và ngày 02/11/2022, tại Cơ quan CSĐT L khai: mỗi lần T điện hỏi mua ma túy, L sử dụng điện thoại Iphone12 Promax gắn sim số 0345355X gọi đến số 0386705X của Trịnh Quang Huy (thôn Đắc Cốc, xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) để mua ma túy và bán cho T. Hai bên thống nhất mua, Huy mang ma túy bỏ vào bao thuốc lá đến trước quán Gang N ném xuống đất, rồi gọi điện chỉ vị trí để L ra lấy ma túy. Lấy được ma túy, L ném vỏ bao thuốc lá xuống sông hoạt rồi mang ma túy vào quán bán lại cho T. Việc mua bán ma túy chỉ Huy và L biết, không ai chứng kiến. Cơ quan CSĐT đã triệu tập Huy đến làm việc nhưng hiện tại Huy không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì gia đình không có thông tin. Qua xác minh số điện thoại, L nói gọi cho Huy thì tên chủ thuê bao là bà Nguyễn Thị Dinh, sinh năm 1964, ở thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhưng bà Dinh không sử dụng số điện thoại này và không biết ai sử dụng. Việc mua bán chất ma túy chỉ L và Huy biết, không ai chứng kiến.

Nguồn gốc ma túy trong túi quần của L treo trong nhà vệ sinh tầng 1, và việc L khai mua 01 viên ma túy dạng kẹo của Trần Anh T ngày 31/10/2022 để sử dụng. Cơ quan Công an làm việc với T và tiến hành đối chất giữa L và Anh T nhưng T khẳng định mình không liên quan. Công an tiến hành trưng cầu giám định dấu vết đường vân trên hộp catton và các túi nilon, kết quả phát hiện một dấu vết đường vân không đủ yếu tố giám định trên hộp catton. Vì vậy, chỉ duy nhất lời khai của L không có căn cứ kết luận việc T bán ma túy cho L và chất thu giữ trong túi quần L treo trong nhà vệ sinh là của Trần Anh T.

Đối với Phạm Văn T, mua ma túy sử dụng cho bản thân, nhưng nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Chất ma túy T mua ngày 28/10/2022 đã sử dụng hết, nên không có căn cứ xác định khối lượng. Chất ma túy mua của L ngày 02/11/2022, T sử dụng một phần, phần ma túy bị thu giữ xác định khối lượng 0,038g loại MDMA (dưới định lượng 0,1g, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS) nên hành vi của T không cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 15/02/2023, Công an huyện Nga Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Văn T theo quy định.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T trong phòng hát của quán Gang nam là do T tự ý sử dụng, không có người tham gia sử dụng cùng, không nói cho ai biết, không được sự đồng ý của người quản lý cho thuê phòng hát nên không có căn cứ xem xét trách nhiệm về tội tổ chức, lôi kéo hoặc chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với chủ quán hát Karaoke Gang N là bà Nguyễn Thị H: quá trình quản lý, sử dụng, kinh doanh dịch vụ quán hát không kiểm tra, nhắc nhở, để vi phạm xảy ra. Ngày 27/02/2023, Chủ tịch UBND huyện Nga Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền theo quy định.

Về tài sản, tang vật thu giữ trong vụ án:

- 01 đầu thu camera, nhãn hiệu @jhua, không hoạt động, không có dữ liệu liên quan đến tội phạm, là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị H. Ngày 14/12/2022, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bà H theo quy định.

- 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự mặt trước ghi “Nga Sơn TC113”; 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (7,5 x4)cm, dạng túi khóa Zip, miệng túi viền đỏ, bên trong có 11 viên nén màu vàng nhạt; 01 túi nilon trắng, kích thước (7,5 x4)cm, dạng túi khóa Zip, miệng túi viền đỏ, bên trong có 03 viên nén hình tròn, màu xám; 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (7,5 x4)cm, dạng túi Zip, miệng túi viền đỏ, bên trong có 01 mảnh giấy trắng đã đóng gói chất bột màu xám; 01 túi nilon màu trắng,kích thước khoảng (7,5 x4)cm, dạng túi Zíp, miệng túi viền đỏ, bên trong có đựng các hạt tinh thể màu trắng; 04 túi nilon một mặt có in hình,kích thước khoảng (2 x2)cm; 01 túi nilon dạng túi khóa Zip, miệng túi viền xanh lá, kích thước khoảng (3 x3)cm, toàn bộ bao bì đã cắt mở niêm phong theo biên bản mở niêm phong ngày 03/11/2022. Tất cả được niêm phong trong một phong bì dán kín có các chữ ký, ghi họ tên Lê Thị Bích N, Trần Minh H và 08 hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; 01 hộp catton hình trụ tròn, đường kính 5cm, cao khoảng 10cm, bên ngoài có dòng chữ “AJAL”; 01 túi nilon màu trắng, miệng túi dạng khóa Zip, có viền màu đỏ, kích thước khoảng (5 x5)cm; 01 túi nilon màu trắng, miệng túi dạng khóa Zip có viền màu đỏ, kích thước khoảng (5 x3)cm. Tất cả được niêm phong trong một phong bì dán kín có các chữ ký, ghi họ tên Đỗ Thùy Trang, Trần Minh H và 07 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 prmax, màu xám, gắn sim số 0345355X; 01 quần vải màu nâu, dây chun màu trắng, có nhiều chữ “G”; tiền VNĐ là 1.000.000đ đang được bảo quản để xem xét xử lý theo quy định.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Văn L theo cáo trạng số 11/CT-VKSNS ngày 24/3/2022 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm b,p khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (03/11/2022).

* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy gồm:

+ 01 phong bì dán kín, niêm phong bởi 08 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Lê Thị Bích N, Trần Minh H, bên trong chứa vỏ bao gói và mẫu vật còn lại sau giám định (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

+ 01 Phong bì dán kín, niêm phong bởi 07 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Đỗ Thùy Trang, Trần Minh H bên trong chứa 01 hộp catton hình trụ tròn có chữ “AJMAL” và 02 vỏ túi nilon (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

+ 01 quần vải màu nâu, dây chun màu trắng, có nhiều chữ “G”.

- Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại Iphone12 Promax, màu xám, gắn sim số 0345355X, đã qua sử dụng.

+ Số tiền 1.000.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 27/3/2023 Truy thu số tiền 2.750.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội trước đó của bị cáo;

Bị cáo Trần Văn L không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội:

Khoảng thời gian từ ngày 28/10/2022 đến ngày 02/11/2022, Trần Văn L đã hai lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho khách tại quán Karaoke Gang N, cụ thể: Tối ngày 28/10/2022, L bán cho Phạm Văn T 02 viên ma túy loại MDMA và nửa chỉ ma túy loại Ketamine với giá 2.750.000đ. Số ma túy này T đã sử dụng hết cho bản thân.

Tối ngày 02/11/2022, L tiếp tục bán cho Phạm Văn T bán 02 viên ma túy loại MDMA, giá 1.000.000đ. Số ma túy này T sử dụng một phần cho bản thân, số ma túy còn lại là 0,038g bị phát hiện thu giữ.

Số ma túy L còn tàng trữ trong túi quần là 6,952g ma túy loại MDMA và 4,Xg ma túy loại Ketamine nhằm mục đích bán trái phép cho người khác.

Tang vật vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nga Sơn thu giữ của Trần Văn L, gồm: 01 điện thoại Iphone12 Promax, màu xám, gắn sim số 0345355X, đã qua sử dụng; số tiền 1.000.000đ; 6,952g ma túy loại MDMA và 4,Xg loại Ketamine. Thu của T là 0,038g loại MDMA.

Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản của những người làm chứng, biên bản khám xét, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo còn 01 lần bán ma túy cho cùng đối tượng, hưởng lợi. Khối lượng chất ma túy làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, gồm 6,952g ma túy loại MDMA và 4,Xg loại Ketamine nên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 BLHS. Ngoài ra, bị cáo L còn phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo Trần Văn L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ về hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo có tính chất và mức độ rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc mua bán, trao đổi các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt - Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; quá trình điều tra bị cáo đã tự thú về 01 lần vi phạm trước đó. Quá trình điều tra bị cáo đã đầu thú về hành vi phạm tội, có ông nội Trần Văn K được tặng kỷ niệm chương chiến sỹ Trường Sơn đường Hồ Chí Minh và giấy chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS đối với bị cáo.

[6] Từ những căn cứ nêu trên: HĐXX xét thấy cần thiết phải áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX căn cứ các tình tiết giảm nhẹ để giảm cho bị cáo một phần hình phạt, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì dán kín, niêm phong bởi 08 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Lê Thị Bích N, Trần Minh H, bên trong chứa vỏ bao gói và mẫu vật còn lại sau giám định (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

- 01 Phong bì dán kín, niêm phong bởi 07 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Đỗ Thùy Trang, Trần Minh H bên trong chứa 01 hộp catton hình trụ tròn có chữ “AJMAL” và 02 vỏ túi nilon (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

- 01 quần vải màu nâu, dây chun màu trắng, có nhiều chữ “G”.

Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại Iphone12 Promax, màu xám, gắn sim số 0345355X, đã qua sử dụng.

- Số tiền 1.000.000đ theo ủy nhiệm chi lập ngày 27/3/2023 Truy thu số tiền 2.750.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội trước đó của bị cáo.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Văn L phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: Điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Trần Văn L 08 (Tám) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (03/11/2022).

* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy gồm:

+ 01 phong bì dán kín, niêm phong bởi 08 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Lê Thị Bích N, Trần Minh H, bên trong chứa vỏ bao gói và mẫu vật còn lại sau giám định (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

+ 01 Phong bì dán kín, niêm phong bởi 07 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa và các chữ ký đứng tên Đỗ Thùy Trang, Trần Minh H bên trong chứa 01 hộp catton hình trụ tròn có chữ “AJMAL” và 02 vỏ túi nilon (nêu cụ thể theo biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận lại sau giám định).

+ 01 quần vải màu nâu, dây chun màu trắng, có nhiều chữ “G”.

- Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại Iphone12 Promax, màu xám, gắn sim số 0345355X, đã qua sử dụng.

+ Số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng).

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng, lập ngày 27/3/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nga Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn và Ủy nhiệm chi chuyển khoản, tiền mặt tại Ngân hàng, lập ngày 27/3/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa).

- Truy thu số tiền 2.750.000đ là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội trước đó của bị cáo;

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo Trần Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo Trần Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về