Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện TY xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2022/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Sùng A V –Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 31/12/1986, tại Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện TY, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: H’Mông; giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng Chờ Th, sinh năm 1963 và con bà Thào Thị S, sinh năm 1967; Vợ: Giàng Thị X, sinh năm 1989; Con: Có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2014); Tiền án: không; Tiền sự: 01 . Ngày 16/8/2021 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã với thời hạn 03 tháng, theo Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 16/8/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện TY.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên toà

- Người bào chữa cho bị cáo – Ông Nông Đức T- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Yên Bái. Có mặt

- Người phiên dịch: Ông Đặng Quốc L- Trường Tiểu học và Trung học cơ sở M, huyện TY, tỉnh Yên Bái. Có mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Giàng Thị X, sinh năm 1989. Có mặt Nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện TY, tỉnh Yên Bái

+ Anh Lý Kiên C, sinh năm 1982 Vắng mặt Nơi cu trú: thôn Kh, xã L, huyện TY, tỉnh Yên Bái

- Người làm chứng:

+ Anh Hà Văn D, sinh năm 1976. Vắng mặt Nơi cư trú: Thôn L, xã L, huyện TY, tỉnh Yên Bái

- Anh Lý Kim C, sinh năm 1984. Vắng mặt Nơi cư trú: Thôn , xã L, huyện TY, tỉnh Yên Bái

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút, tại khu vực nghĩa trang thuộc thôn Phương Đạo 3, xã Lương Thịnh, huyện TY, Đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an huyện TY phát hiện và lập biên bản đối với Lý Kiên C, sinh năm 1982, trú tại thôn Khe Bát, xã Lương Thịnh, huyện TY về hành vi sử dụng trai phép chất ma túy và thu giữ tại chỗ 01 mảnh giấy bạc bị cháy xém, 01 bật lửa ga, 01 mảnh nilon màu hồng. Lý Kiên C khai nhận đã mua ma túy, loại Heroine của Sùng A V trú tại thôn K, xã H, huyện TY để sử dụng.

Căn cứ lời khai của Lý Kiên C, Cơ quan điều tra Công an huyện TY đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Sùng A V tại thôn K, xã H, phát hiện và thu giữ tại khu vực ghế băng kê sát vách phòng ngủ 01 (một) lọ nhựa màu trắng, bên trong đựng 18 gói nilon, trong đó 17 gói nilon màu hồng bên trong đựng bột nén màu trắng, 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa bột nén màu trắng và một nửa viên nén màu hồng. Ngoài ra con thu giữ trong phòng ngủ số tiền 109.840.000 đồng, 01 EPAD 7i màu trắng, màn hình cảm ứng, 06 điện thoại di động đã qua sử dụng gồm 03 điện thoại nhãn hiệu MASTEL, 02 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG và 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA.

Tại Bản kết luận giám định số 588/GĐMT ngày 01/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận:

- Chất bột nén màu trắng trong 17 gói nilon màu hồng có tổng khối lượng là 2,7 gram; 0,1 gram trích từ 2,7 gram chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

- Chất bột nén màu trắng trong gói nilon màu xanh có khối lượng là 0,068 gram; 0,068 gram chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

- Chất bột nén màu hồng trong gói nilon màu xanh có khối lượng là 0,059 gram; 0,059 gram chất bột nén màu hồng gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Sùng A V đã tự khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy nên đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân và vào ngày 24/11/2021 tại nhà riêng của mình ở thôn K, xã H, huyện TY, Sùng A V đã nhiều lần bán ma túy cho người khác để kiếm lời, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 10 giờ ngày 24/11/2021, Hà Văn D, sinh năm 1976, trú tại thôn Lương Tàm, xã Lương Thịnh hỏi ma ma túy và được V đồng ý bán cho Dũng 01 gói ma túy, loại Heroine, đựng trong gói nilon màu hồng hàn túm 01 đầu với giá 200.000 đồng. Sau khi bán ma túy cho Hà Văn D xong thì Lý Kiên C đi vào đưa cho V 200.000 đồng để mua ma túy và được V bán cho 01 gói ma túy, loại Heroine.

Lần thứ 2: Vào khoảng 18 giờ cùng ngày, Lý Kim C, sinh năm 1984 và Hà Văn C, sinh năm 1975 đều trú tại xã Lương Thịnh, huyện TY cùng đến nhà V. Tại đây, Lý Kim C đưa cho V 200.000 đồng và được V bán cho 01 gói ma túy, loại Heroine; Hà Văn C cũng đưa cho V 200.000 đồng và được V bán cho 01 gói ma túy, loại Heroine.

Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập và lấy lời khai của Lý Kiên C, Hà Văn D, Lý Kim C, kết quả lời khai phù hợp với lời khai của Sùng A V Đối với Hà Văn C, cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập nhưng Hà Văn C không có mặt tại địa phương nên không lấy được lời khai. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của Sùng A V, Lý Kim C và vật chứng thu giữ được tại nơi ở của Sùng A V đã đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 18 giờ cùng ngày, Sùng A V đã bán cho Hà Văn C 01 gói ma túy, loại Heroine với giá 200.000 đồng.

Ngoài ra Sùng A V còn khai nhận vào khoảng 20 giờ ngày 24/11/2021, Sùng A V đã bán cho Hà Văn T 01 gói ma túy, loại Heronine với giá 200.000 đồng. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh nhưng T không có mặt tại địa phương nên không lấy được lời khai của T. Do đó chưa đủ cơ sở kết luận Sùng A V đã bán ma túy cho T.

Về nguồn gốc ma túy đã bán và bị thu giữ, Sùng A V khai nhận gặp và mua của một người đàn ông vào trước ngày bị bắt khoảng một tuần tại khu vực thôn Khe Tiến, xã H, huyện TY nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ.

Cáo trạng số 05/CT-VKSTY ngày 20/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Sùng A V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt:

Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Sùng A V từ 08 năm tù đến 09 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng

- Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị:

+ Tịch thu tiêu huỷ 2,6 gram ma túy, loại Heroine, còn lại sau giám định.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) lọ nhựa màu trắng; 33 (ba mươi ba) mảnh nilon màu hồng; 01 gói nilon màu xanh; 01 (một) mảnh giấy bạc bị cháy xém; 01 (một) bật lửa ga; 01 (một) mảnh nilon màu hồng.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 800.000 đồng do Sùng A V bán ma túy mà có.

+ Trả lại cho Sùng A V và chị Giàng Thị X số tiền 109.040.000 đồng

+ Trả lại cho Sùng A V và chị Giàng Thị X 01 (một) EPAD 7i, 06 (sáu) chiếc điện thoại di động.

(Toàn bộ vật chứng đã được mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TY với Chi cục thi hành án dân sự huyện TY).

- Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A V Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo và còn tự khai ra các lần bán ma túy khác. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” và “tự thú”, được quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ cận nghèo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 năm tù đến 08 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A V Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà:

Bị cáo thành khẩn khai báo, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY. Bị cáo nhất trí với phần trình bày của người bào chữa, không bổ sung gì, không tranh luận gì.

Người có quyền lợi liên quan chị Giàng Thị X đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho gia đình chị số tiền 109.040.000 đồng, 01 chiếc EPAD 7i và 06 chiếc điện thoại di động.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở kết luận: Do nghiện chất ma túy nên Sùng A V đã mua ma túy về để sử dụng cho bản thân và bán để kiếm lời. Trong ngày 24/11/2021, Sùng A V đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy và bán cho nhiều người, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 10 giờ, Sùng A V đã bán cho Hà Văn D, Lý Kiên C mỗi người 01 (một) gói ma túy, loại Heroine, với giá 200.000 đồng/gói.

Lần thứ hai: Vào khoảng 18 giờ, Sùng A V đã bán Lý Kim C và Hà Văn C mỗi người 01 (một) gói ma túy, loại Heroine, với giá 200.000 đồng/gói.

Ngoài ra ngày 25/11/2021, Cơ quan điều tra còn thu giữ 2,768 gram ma túy, loại Heroine và 0,059 gram ma túy, loại Methamphetamin, V khai nhận là để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời.

Hành vi của bị cáo Sùng A V đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Hiện nay Nhà nước ta có nhiều chủ trương nhằm phòng, chống và đẩy lùi loại tệ nạn này, từ tệ nạn ma túy làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội ở địa phương, bị dư luận xã hội lên án. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức, điều chỉnh mọi hoạt động bản thân, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngoài ra bị cáo đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã nhưng không chịu rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, do đó cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có thể giáo dục, cải tạo được bị cáo và phòng chống tội phạm nói chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự khai ra hành vi bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng khác, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Sùng A V nhưng V không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên không đủ căn cứ để xử lý trọng vụ án này.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hà Văn D tại góc nhà của bị cáo, Dũng không hỏi bị cáo và bị cáo cũng không biết nên không có căn cứ xử lý bị cáo về hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

[7] Đối với hành vi bị cáo tự khai bán ma túy cho Hà Văn T nhưng không có người làm chứng, Cơ quan điều tra cũng không lấy được lời khai của Hà Văn T, do đó chưa đủ cơ sở để xác định bị cáo đã bán ma túy cho Hà Văn T nên không xử lý trong vụ án này.

[8] Về hình phạt bổ sung, án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cũng như miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,168 gram ma túy, loại Heroin và 0,059 gram ma túy loại Methamphetamin đã giám định hết nên không hoàn lại.

- Đối với số 2,6 gram ma túy, loại Heroine, còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đôi với 01 (một) lọ nhựa màu trắng; 33 (ba mươi ba) mảnh nilon màu hồng; 01 gói nilon màu xanh; 01 (một) mảnh giấy bạc bị cháy xém; 01 (một) bật lửa ga; 01 (một) mảnh nilon màu hồng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 800.000 đồng do bán ma túy mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 109.040.000 đồng là tiền của vợ chồng bị cáo vay mượn của người khác và bán đồi quế, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho vợ chồng bị cáo.

- Đối với chiếc EPAD 7i và 06 chiếc điện thoại di động là tài sản của vợ chồng bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho vợ chồng bị cáo.

[10] Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo:

Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm tù đến 08 năm tù. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đã bán ma túy nhiều lần, bán cho nhiều người, ngoài ra còn tàng trữ nhiều ma túy mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Do đó, mức hình phạt người bào chữa cho bị cáo đề nghị là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên không được chấp nhận.

Đối với các đề nghị khác là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

[11] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Sùng A V 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/4/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TY với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TY như sau:

Tịch thu tiêu huỷ: 2,6 gram ma túy, loại Heroine; 01 (một) lọ nhựa màu trắng; 33 (ba mươi ba) mảnh nilon màu hồng; 01 (một) gói nilon màu xanh; 01 (một) mảnh giấy bạc bị cháy xém; 01 (một) bật lửa ga; 01 (một) mảnh nilon màu hồng.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 800.000 (tám trăm nghìn) đồng.

Trả lại cho bị cáo và vợ bị cáo là chị Giàng Thị X: 03 điện thoại di động nhãn hiệu MASTEL; 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 01 (một) chiếc EPAD 7i và số tiền 109.040.000 (một trăm linh chín triệu không trăm bốn mươi nghìn) đồng.

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Sùng A V.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người có mặt); kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết (đối với người vắng mặt).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về