Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp) số 569/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 569/2023/HS-PT NGÀY 01/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2023 Ngày 01 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm trực tiếp công khai vụ án hình sự thụ lý số 555/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Lê Văn Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2023/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/2023/QĐXXPT-HS ngày 07 tháng 11 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Văn Quốc T (tên gọi khác: Cu Q), sinh ngày 05/3/1989 tại thành phố Đà Nẵng; đăng ký HKTT: Tổ A, phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng; nơi ở: 2, đường H, phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng; giới tính: nam; nghề nghiệp: lao động phổ thồn; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; học vấn: 06/12; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Lê Thị Lệ L; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con đầu; chưa có vợ con.

Tiền án: Ngày 24/6/2009 bị Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 28/2009/HSST; ngày 20/3/2013 bị Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 10 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 3 Điều 138 BLHS tại Bản án số 08/2013/HSST, tổng hợp hình phạt 04 năm tù tại Bản án số 28/2009/HSST ngày 23/4/2009 của Toà án nhân dân quận Hải Châu buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả 2 bản án là 14 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2009; chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/11/2020;

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 23/6/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 36/2006/HSPT.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 6 năm 2022, hiện đang bị tạm giam.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn Quốc T: ông Hà Xuân B – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ; địa chỉ: A H, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 4/2022, Lê Văn Quốc T ra thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế chơi, vào quán Karaoke (không nhớ địa chỉ) quen biết một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy. Người thanh niên giới thiệu Lê Văn Quốc T liên hệ qua ứng dụng Telegram để liên lạc. T liên lạc gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch) đặt mua ma túy. Người này đồng ý và cho số tài khoản Ngân hàng V: 9972558176 mang tên Nguyễn Hoàng Minh A (sinh ngày 10/11/1998; trú: 57 Bùi Thị X, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế) để T chuyển tiền mua ma túy. Từ tháng 04/2022 cho đến khi Lê Văn Quốc T bị bắt đã ba lần thực hiện việc giao dịch mua bán ma túy với người phụ nữ nêu trên, cụ thể Lần 1: Tháng 4/2022, Lê Văn Quốc T liên lạc qua T3 đặt mua 100 (một trăm) viên ma túy tổng hợp giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)/ 1 (một) viên. T chuyển tiền vào Ngân hàng V số 9972558176 để mua ma túy. Người này gửi ma túy cho T bằng đường xe khách vào Đà Nẵng. T bán giá 230.000đ (hai trăm ba mươi nghìn đồng)/1 (một) viên. T lời 3.000.000đ (ba triệu đồng), đã tiêu xài hết.

Lần 2: Tháng 5/2022, T liên lạc qua T3 đặt mua 250 (hai trăm năm mươi) viên ma túy tổng hợp giá 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). T chuyển tiền vào tài khoản Ngân hàng V số 9972558176 để mua ma túy. Người này gửi ma túy cho T bằng đường xe khách vào Đà Nẵng. T bán giá 230.000đ (hai trăm ba mươi nghìn đồng)/ 1 (một) viên. T lời 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng), đã tiêu xài hết.

Lần 3: Ngày 09/6/2022, Lê Văn Quốc T liên lạc đặt mua 60 gam ma túy loại Ketamine và 350 (ba trăm năm mươi) viên ma túy tổng hợp. Hai bên thống nhất giá 94.000.000đ (chín mươi bốn triệu đồng). T đã chuyển 90.000.000đ (chín mươi triệu đồng) vào tài khoản số 9972558176 của ngân hàng V chi nhánh thành phố H còn nợ lại 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Để che dấu hành vi phạm tội của mình, Lê Văn Quốc T đã cung cấp địa chỉ số C đường B, thành phố Đà Nẵng làm nơi nhận ma túy, số điện thoại 0931947819 của bà Lê Thị L (mẹ của T) để liên lạc nhận ma túy và tên người nhận là “Chị H” cho người phụ nữ ở thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế biết liên lạc giao, nhận ma túy.

Lúc 12 giờ 30 phút ngày 09/6/2022, Hồ Văn L1 (sinh năm 1988; trú: Thôn T, xã D, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế) làm nghề kinh doanh xe vận tải nhận điện thoại số 0702793159 của một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) nói đến đường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế nhận gói hàng chuyển vào thành phố Đà Nẵng. Hồ Văn L1 đến nơi nhận một gói hàng của người thanh niên và nói giá cước 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau khi nhận gói hàng xong, Hồ Văn Long đem về Công ty số 44 Hồ Đắc Di, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế giao lại cho Lê Hữu Thắng (sinh năm 1997, trú: 341 Trần Huy Liệu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế) là lái xe cho Hồ Văn Long để đem vào Đà Nẵng giao cho khách.

Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 09/6/2022, Lê Hữu Thắng, điều khiển xe ô tô biển số kiểm soát 75A-293.78 vào thành phố Đà Nẵng trả khách và giao hàng. Khi đến địa chỉ 38/8 Bắc Đẩu, thành phố Đà Nẵng thì Thắng điện thoại gặp bà Lê Thị Lệ L (mẹ ruột của T) nói đến nhận hàng. Lúc này bà L đang ở nhà và nói “không có đặt hàng gì cả”. Sau đó, bà L hỏi T “có đặt hàng gì không”, T nói “có”. T mượn xe máy biển kiểm soát 43D1- X của bà L đi nhận ma túy. Lúc này Thắng đợi một lúc nhưng chưa thấy T đến, khách trên xe hối đi, Thắng lái xe ô tô đến số nhà 604 Ông Ích Khiêm, thành phố Đà Nẵng để trả khách. Khi T đến 38/8 Bắc Đẩu, thành phố Đà Nẵng nhận ma túy thì không thấy người giao hàng. T điện cho bà Lê Thị Lệ L nhờ điện thoại cho Thắng nói “chờ một chút có người đến lấy”, Thắng nói “đến trước số nhà 604 Ông Ích Khiêm, thành phố Đà Nẵng để nhận hàng”. Bà L điện thoại lại thông báo cho T biết và T xin bà L số điện thoại của người giao hàng để tiện liên lạc, bà L đọc số điện thoại của người giao hàng cho T. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/6/2022, T đến trước số nhà 604 Ông Ích Khiêm, thành phố Đà Nẵng nhận gói ma túy và đưa cho Thắng 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) cước phí vận chuyển thì bị bắt quả tang.

Lúc 18 giờ 10 phút, ngày 09/6/2022, tại Công an phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn Quốc T về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) gói nilong, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, 04 (bốn) gói nilong chứa 350 viên nén màu vàng hình kim cương, được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu: A;

- 01 (một) xe máy biển số 43D1-X

- 200.000₫ (hai trăm nghìn đồng);

- 01 (một) điện thoại di động Iphone màu đen, có hình quả táo, gắn sim số 0795752X.

* Tại Kết luận giám định số: 116/KLMT-KTHS ngày 17/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận:

- Tinh thể rắn màu trắng gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy, loại Ketamine; khối lượng mẫu Al: 59,862 gam; Mẫu viên nén màu vàng, hình kim cương gửi giám định ký hiệu A2 là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu A2:

173,54 gam.

Quá trình điều tra, Lê Văn Quốc T thành khẩn thừa nhận hành vi như trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2023/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

Căn cứ: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 39 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Lê Văn Quốc T tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 09/6/2022.

- Phạt tiền bổ sung bị cáo Lê Văn Quốc T số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, bị cáo Lê Văn Quốc T có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lê Văn Quốc T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Quốc T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm bào chữa của luật sư Hà Xuân B cho bị cáo như sau: Không có ý kiến gì về tội danh, điểm khoản Điều luật mà Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, Luật sư cho rằng mức hình phạt tù chung thân đối với bị cáo là quá nghiêm khắc; sau khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo còn tự thú khai ra 2 lần phạm tội trước đó khi chưa bị phát giác, phát hiện; số chất ma túy lần 3 bị cáo mới nhận chưa kịp tiêu thụ. Do vậy, luật sư đề nghị HĐXX giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, chuyển sang hình phạt tù có thời hạn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn luật định và đảm bảo quy định tố tụng nên được xem xét theo quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được tranh tụng tại các phiên toà. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận Trong khoảng thời gian từ tháng 04/2022 đến ngày 09/6/2022, bị cáo Lê Văn Quốc T đã 3 lần có hành vi liên lạc qua ứng dụng Telegram để đặt mua ma túy của một người phụ nữ (không rõ họ tên và địa chỉ, ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế). Sau đó bị cáo T thanh toán tiền qua tài khoản Ngân hàng, nhận ma túy bằng đường xe khách từ Huế vào Đà Nẵng và bán lại tại Đà Nẵng để kiếm lời.

Lần 1: tháng 4/2022, bị cáo T mua 100 viên ma túy tổng hợp giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)/ 1 (một) viên và bán hết lại với giá 230.000đ (hai trăm ba mươi nghìn đồng)/1 (một) viên; T lời 3.000.000đ (ba triệu đồng).

Lần 2: Tháng 5/2022, T mua 250 viên ma túy tổng hợp giá 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) và đã bán lại hết giá 230.000đ (hai trăm ba mươi nghìn đồng)/ 1 (một) viên. T lời 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng), Lần 3: Ngày 09/6/2022, Lê Văn Quốc T liên lạc đặt mua 60 gam ma túy loại Ketamine và 350 viên ma túy tổng hợp với giá 94.000.000đ (chín mươi bốn triệu đồng). T đã chuyển trả 90.000.000đ (chín mươi triệu đồng) còn nợ lại 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Lúc 17 giờ 30 phút, ngày 09/6/2022 tại trước số nhà 604 đường Ông Ích Khiêm, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, khi Lê Văn Quốc T đang giao nhận số ma tuý trên thì bị Công an thành phố Đà Nẵng bắt quả tang thu giữ 233,402 gam ma túy (trong đó: 173,54 gam ma túy loại MDMA; 59,862 gam ma túy loại Ketamine).

Hành vi trên của bị cáo Lê Văn Quốc T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự “có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ a đến g khoản này”, Do đó Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất của vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và việc quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội; trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi pháp luật nghiêm trọng, nhưng vì mục đích vụ lợi, bị cáo đã bất chấp và coi thường pháp luật, thực hiện hành vi mua đi bán lại trái phép nhiều chất ma túy (cả Ketamine và MDMA) nhiều lần (3 lần); bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên; bản thân bị cáo có nhân thân xấu, từ năm 2006 cho đến năm 2013 liên tục bị xét xử về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, mới chấp hành xong hình phạt 14 năm tù ngày 07/11/2020, chưa được xoá án tích thì đến tháng 04/2022 bị cáo tiếp tục phạm tội mới với tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng hơn, nên bị cáo bị áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội từ 2 lần trở lên” và “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tự thú khai báo ra các lần phạm tội trước đó; do đó bị cáo được hưởng các các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên cũng như nhân thân của bị cáo để xử phạt Lê Văn Quốc T với mức án tù chung thân và phạt tiền bổ sung đối với bị cáo số tiền là 20.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên toà phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Quốc T cũng như lời bào chữa của luật sư cho bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

3. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Văn Quốc T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 355, điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Quốc T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 39 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Lê Văn Quốc T tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 09/6/2022.

- Phạt tiền bổ sung bị cáo Lê Văn Quốc T số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

2. Về án phí Lê Văn Quốc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp) số 569/2023/HS-PT

Số hiệu:569/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về