TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 78/2021/HS-PT NGÀY 07/05/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 07 tháng 5 năm 2021, tại trụ sởTòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 73/2021/TLPT-HS ngày 15tháng 3năm 2021 đối với bị cáo Lê Thị Hồng Th, do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị Hồng Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2021/HS-ST ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lê Thị Hồng Th, sinh năm 1977 tại Thanh Hóa; HKTT: Tổ dân phố Y, phường B, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa:
3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh C và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có chồng Nguyễn Phi H (đã chết); có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án Hình sự phúc thẩm số 31/2017/HS-PT ngày 17/02/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tuyên phạt bị cáo Lê Thị Hồng Th 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Chứa mại dâm”. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.
- Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị: Nguyễn Kim Q, Bùi Hữu Tr; đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19h00’ ngày 13/9/2020, Nguyễn Thị L đã gọi điện thoại cho Bùi Hữu Tr, nhờ Tr chở đến nhà Nguyễn Kim Q ở tổ dân phố S, phường B, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa để chờ khách có nhu cầu mua dâm. Đến khoảng 21 giờ 00’, khi L và Tr đang ngồi uống nước tại nhà Q thì Lê Văn H1 và Hồ Văn H2 đến hỏi mua dâm, H1 và H2 có gặp chị H3 vợ Q hỏi thì chị H3 bảo ở đây không có. Lúc này Tr nghe H1 và H2 hỏi tìm nhân viên để mua dâm thì Tr nói với H1 và H2 “Ở đây có mối 300.000đ có đi không”, H1 và H2 đồng ý và bảo Tr kiếm thêm một nhân viên nữ nữa, tuy nhiên Tr nói chỉ có một thôi; lúc này Q về nhà thấy Tr, H1 và H2 hỏi xem có nhân viên nào không? Q gọi điện cho Lê Hồng Th thì Th nói có một nhân viên giá 300.000k bao gồm cả tiền phòng. Q đồng ý và bảo Th đưa nhân viên đó lên nhà Q. Sau đó Th gọi điện cho Hà Thị T, bảo T đến nhà Q bán dâm. Khoảng 21h30’ ngày 13/9/2020, Hà Thị T bắt xe ôm đến nhà Q, khi T đến thì Q dẫn T và H2 vào phòng số 06, L và H1 vào phòng số 02. Trong khi các đối tượng đang thực hiện mua bán dâm tại phòng số 02 và 06 thì bị tổ công tác Công an thị xã Nghi Sơn kiểm tra, phát hiện. Tang vật thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 bao cao su nhãn hiệu sure đã bị xé và 600.000đ.
Tiến hành khám xét nơi ở của Q thu giữ được 55 bao cao su nhãn hiệu VIP, màu trắng và 01 bao cao su nhãn hiệu Sure chưa qua sử dụng.
* Bản án số 21/2021/HS-ST ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa:
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Kim Q phạm tội “Chứa mại dâm” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kim Q 18 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo về cho chính quyền UBND phường B, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa giám sát và giáo dục.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 328, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Hữu Tr phạm tội “Môi giới mại dâm” Xử phạt: Bị cáo Bùi Hữu Tr 12 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo về cho chính quyền UBND phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa giám sát và giáo dục.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Hồng Th phạm tội “Môi giới mại dâm” Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Hồng Th 09 tháng tù. Thời gian chấp hành tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên chế định án treo, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
* Ngày 08/02/2021 bị cáo Lê Thị Hồng Th kháng cáo xin hưởng án treo. Tại phiên tòa bị cáo bổ sung thêm nội dung kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ chứng minh bố bị cáo là ông Lê Thanh C là Bệnh binh, được tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì và được tặng kỷ niệm chương chiến sỹ bảo vệ thành cổ quảng trị năm 1972. Vì vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy địnhtại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Và Điều kiện hoàn cảnh bị cáo rất khó khăn, chồng chết, có 4 con, con nhỏ nhất sinh năm 2018, là lao động duy nhất trong gia đình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm: giảm cho bị cáoThân từ 01 đến 03 tháng tù;
không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm vì kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo làm theo đúng quy định tại Điều 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Hồng Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thể hiện như sau: Khoảng 22h00’ ngày 13/9/2020, Nguyễn Kim Q đã có hành vi chứa mại dâm cho hai cặp mua bán dâm tại hai phòng trọ số 06 và 02 thuộc quyền sử dụng của Q ở thôn S, phường B, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa. Lê Thị Hồng Th đã môi giới Hà Thị T và Bùi Hữu Tr đã môi giới Nguyễn Thị L là gái bán dâm cho các đối tượng mua dâm Lê Văn H1 và Hồ Văn H2 để thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng trọ của Nguyễn Kim Q, mục đích hưởng lợi.
Với hành vi trên, Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã xét xửbị cáoNguyễn Kim Q về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327; Bùi Hữu Tr và Lê Thị Hồng Th về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo để quyết định mức hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo Lê Thị Hồng Th là có căn cứ và đúng pháp luật.
Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ mới cụ thể bố bị cáo là Bệnh binh, được tặng Huân chứng chiến sỹ giải phóng hạng nhì và được tặng kỷ niệm chương chiến sỹ bảo vệ thành cổ Quảng Trị năm 1972; Điều kiện hoàn cảnh bị cáo khó khăn, chồng chết, có 4 con, con nhỏ nhất sinh năm 2018, bị cáo là lao duy nhất trong gia đình. Vì vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt; Viện kiểm sát đề nghị giảm cho bị cáo Th từ 01 đến 03 tháng tù là phù hợp.
Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu thể hiện: Năm 2017 bị cáo Th bị xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Chứa mại dâm”. Bị cáo vừa mới được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội “môi giới mại dâm”, chứng tỏ bị cáo ý thức chấp hành pháp luật không tốt, không có khả năng tự cải tạo; vì vậy không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Thị Hồng Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thị Hồng Th; sửa Bản án số 21/2021/HSST ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Hồng Th phạm tội “Môi giới mại dâm” Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Hồng Th 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
* Án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Thị Hồng Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
* Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội môi giới mại dâm số 78/2021/HS-PT
Số hiệu: | 78/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về