Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 57/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 57/2023/HS-PT NGÀY 13/02/2023 VỀ TỘI LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 960/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 10 năm 2022; do có kháng cáo của các bị cáo Trạc Văn A, Đoàn Tùng A8, Bùi Hoàng A4 và kháng cáo của bị hại là bà Lương Thị A24 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 336/2022/HS-ST ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

1. Trạc Văn A, tên gọi khác: Không; sinh năm 1989 tại Quảng Ninh;

ĐKHKTT: Thôn CK, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Sán Dìu; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Trạc Văn A1 và bà Nguyễn Thị A2; có vợ là Lý Thị A3 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2021 đến nay (tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội); có mặt.

2. Bùi Hoàng A4, tên gọi khác: Không; sinh năm 1989 tại Phú Thọ;

ĐKHKTT: Số 06 đường LHP, phường DĐ, thành phố PQ, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Bùi Xuân A5 và bà Nguyễn Thị Hồng A6; có vợ là Phạm Anh A7 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Tại Bản án hình sự số 01/2020/HS-PT ngày 03/01/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”;

Nhân thân:

- Bản án hình sự số 321/2011/HSST ngày 10/8/2011, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 06/01/2017 bị Công an quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi tàng trữ tuýp sắt, dao sắt, gậy sắt nhằm mục đích cố ý gây thương tích;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2021 đến nay (tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội); có mặt.

3. Đoàn Tùng A8, tên gọi khác: Không; sinh năm 1977 tại Hà Nội;

ĐKHKTT: Số 43 ngõ H, phường HT, quận HK, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Luật sư; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Đoàn A8 và bà Phạm Thị A9; có vợ là Bùi Thị Lệ A10 sinh năm 1977 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021 đến ngày 16/9/2021; bị cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Bị cáo bị kháng cáo:

Phạm Thanh A11, tên gọi khác: Không; sinh năm 1982 tại A11 Dương;

ĐKHKTT: Số 01A ngõ 32 đường B, phường NK, quận BĐ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn A12 và bà Lê thị A13; có vợ là Trần Thị Thúy A14, sinh năm 1986 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2021 đến nay (tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội); có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trạc Văn A: Bà Phạm Thị A15 và ông Vi Văn A16, Luật sư Công ty Luật TNHH TH, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thanh A11: Bà Lê Thị A17 Luật sư Văn phòng Luật sư AP thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Bùi Hoàng A4:

1. Ông Trần Đình A18 và bà Bùi Thị A19 Luật sư Văn phòng Luật sư VD, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

2. Ông Nguyễn Hồng A19 Luật sư Công ty Luật TNHH SHTC, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

3. Ông Lê Văn A20 Luật sư Công ty Luật TNHH TH, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Ông Phạm Thế A21, Luật sư Văn phòng Luật sư ĐP, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Tùng A8: Các Luật sư Lê Văn A22, Trần Văn A23 thuộc Văn phòng Luật sư ASCL - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Luật sư A22 có mặt, vắng mặt Luật sư A23.

* Bị hại có kháng cáo: Bà Lương Thị A24, sinh năm 1965;

Đa chỉ: Ấp Long Hòa, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, có mặt.

* Người A vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Ông Nguyễn Trọng A25 Luật sư Công ty Luật TNHH TNV - thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có con gái là Nguyễn Thị Kim A26 bị Công an huyện TT, Thành phố Hà Nội bắt quả tang về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy; bà Lương Thị A24 (mẹ của A26) đã cùng với chị Nguyễn Thị A27 (con gái bà A24) tìm người nhờ lo cho Kim A26 được giảm án khi xét xử. Chị A27 đã liên hệ nhờ Trạc Văn A tìm người giúp; sau đó A gọi điện thoại lại cho chị A27 báo đã nhờ được người quen là luật sư tại Hà Nội sẽ xin được cho Kim A26 bị xét xử từ 07 - 15 năm tù, với phí luật sư là 300.000.000 đồng và phí chạy án là 2.700.000.000 đồng, bà A24 đồng ý.

Ngày 23/4/2019, A dẫn bà A24 đến gặp Đoàn Tùng A8 là trưởng Văn phòng luật sư GN có trụ sở tại số nhà 43, ngõ H, phường HT, quận HK, Thành phố Hà Nội. Do bà A24 không biết chữ nên nhờ anh Bùi Ngọc A28 đi cùng để chứng kiến. Khi tất cả gặp nhau tại quán cà phê gần Văn phòng luật sư GN có mặt A8, A, bà A24, anh A28. Tại đây, A giới thiệu cho bà A24 biết Đoàn Tùng A8 là trưởng Văn phòng luật sư GN, là người sẽ bào chữa và chạy án cho Kim A26 với mức án từ 07 đến 15 năm tù hết tổng chi phí là 3.000.000.000 đồng, trong đó 300.000.000 đồng là tiền thuê luật sư bào chữa và 2.700.000.000 đồng để lo chạy án. Sau khi đã thống nhất việc chạy án cho Kim A26, một lúc sau anh Nguyễn Sơn A29 (là luật sư giúp việc cho A8) đến quán cà phê, khoảng 10 phút sau anh Sơn A29 về trước soạn hợp đồng dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của A8, sau đó A8 dẫn những người còn lại về Văn phòng luật sư GN. Tại đây, A8 ký hợp đồng dịch vụ pháp lý ngày 23/4/2019 với bà A24, phí thuê luật sư là 300.000.000 đồng rồi viết phiếu thu đưa cho bà A24 giữ, A8 thống nhất với bà A24 về việc sẽ đăng ký thủ tục với Cơ quan điều tra và bà A24 có trách nhiệm chuyển tiền chạy án cho Kim A26. Sau khi bà A24 ra về, A ở lại và được A8 chia cho số tiền 100.000.000 đồng từ số tiền đã nhận của bà A24. Sau đó, A8 thống nhất với anh Sơn A29 cùng tham gia bào chữa cho Kim A26 và A8 đưa cho anh Sơn A29 150.000.000 đồng, trong đó 100.000.000 đồng tiền thù lao bào chữa và 50.000.000 đồng là tiền A8 trả nợ do đã vay anh Sơn A29 trước đó.

Đoàn Tùng A8 gửi thủ tục đăng ký tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TT để A8 và anh Nguyễn Sơn A29 bào chữa cho Kim A26. Ngày 6/5/2019, Đoàn Tùng A8 và anh Sơn A29 được Cơ quan điều tra Công an huyện TT cấp thông báo về việc đăng ký bào chữa cho Kim A26. Đến ngày 13/6/2019, A8 gọi điện cho anh A28, yêu cầu bà A24 chuyển tiếp 1.000.000.000 đồng cho A8 để đi chạy án cho Kim A26. Anh A28 báo lại cho bà A24 biết nên bà A24 đã chuyển 1.000.000.000 đồng vào tài khoản 0021000326195 của anh A28 tại Ngân hàng Vietcombank. Ngày hôm sau, anh A28 ra ngân hàng chuyển số tiền trên từ tài khoản của A28 vào tài khoản 0021000905247 của Đoàn Tùng A8. Sau khi chuyển tiền, anh A28 chụp ảnh ủy nhiệm chi gửi cho A8. A8 xác nhận với anh A28 và viết phiếu thu số tiền 1.000.000.000 đồng rồi chụp ảnh gửi lại qua zalo cho anh A28 để đưa lại cho bà A24. Khi bà A24 ra Hà Nội cùng anh A28 đến gặp A8 thì A8 yêu cầu ký phụ lục hợp đồng dịch vụ pháp lý để A8 hợp thức hóa số tiền 1.000.000.000 đồng đã nhận (hợp đồng được anh Sơn A29 soạn sẵn theo yêu cầu của A8). Sau khi A8 nhận được số tiền 1.000.000.000 đồng thì A đến nhà A8 lấy tiền hưởng lợi nhưng A8 không có nhà, A8 gọi điện thoại cho vợ là chị Bùi Thị Lệ A10 nói đưa cho A 200.000.000 đồng. A nhận tiền rồi viết giấy biên nhận đưa lại cho chị A10.

Đu tháng 8/2019, A8 gọi điện cho anh A28 yêu cầu bà A24 giao thêm 400.000.000 đồng để lo xin giảm án cho Kim A26, anh A28 báo lại cho bà A24 biết. Khoảng một tuần sau, bà A24 mang theo 300.000.000 đồng ra Hà Nội và được A28 đưa đến gặp A8 tại Văn phòng Luật sư GN. Tại đây, bà A24 hỏi A8 về tình hình lo giảm án cho Kim A26 thì A8 nói đã lo bên Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát sớm khép hồ sơ để xét xử và yêu cầu bà A24 đưa thêm 400.000.000 đồng để chạy án cho Kim A26, bà A24 giao cho A8 300.000.000 đồng nhưng A8 yêu cầu phải giao đủ 400.000.000 đồng, bà A24 đồng ý sẽ chuyển khoản vào hôm sau. Sau đó, A8 viết phiếu thu 400.000.000 đồng đưa cho bà A24 giữ và đưa cho bà A24 ký biên bản thanh lý hợp đồng dịch vụ pháp lý cũ và ký mới hợp đồng dịch vụ pháp lý ngày 13/8/2019, số tiền thù lao luật sư trong hợp đồng là 700.000.000 đồng. Ngày hôm sau, chị A27 chuyển khoản cho anh A28 100.000.000 đồng và anh A28 đã đưa trực tiếp cho A8. Khoảng tháng 11/2019, khi vụ án của Kim A26 có kết luận điều tra thì A8 chụp ảnh gửi cho anh A28, anh A28 gửi lại cho chị A27. Sau đó, A8 tiếp tục nói với anh A28 yêu cầu nhà bà A24 chuyển thêm cho A8 2.500.000.000 đồng để A8 xin giảm án cho Kim A26, nhưng chỉ xin được mức án Chung thân mà không xin được mức án từ 07 đến 15 năm tù như thỏa thuận ban đầu, bà A24 không đồng ý đồng thời hủy thỏa thuận và đòi lại tiền đã đưa trước đó. Bà A24 yêu cầu A có trách nhiệm đòi lại tiền đã đưa cho A8, sau nhiều lần đòi tiền không được, ngày 12/4/2020 chị A27 yêu cầu A viết giấy về trách nhiệm đòi lại tiền từ A8 nên A tự viết một giấy cam kết nội dung: “Tôi Trạc Văn A có trách nhiệm số tiền chạy án cho chị Nguyễn Thị Kim A26 như sau: Ngày 23/4/2019 số tiền 300.000.000 đồng ông Đoàn Tùng A8 nhận. 2, ngày 14/6/2019 số tiền 1.000.000.000 đồng ông Đoàn Tùng A8 nhận. 3, ngày 13/8/2019 số tiền là 400.000.000 đồng. Số tiền mà gia đình đưa cho để no vụ án cho chị Nguyễn Thị Kim A26 với mức án vào khoản 2.3 với số tiền 3 tỷ đồng chẵn nay đã đưa trước 1.700.000.000 đồng chẵn hứa với gia đình lo được cho chị A26 no được thì lấy đủ số tiền 3 tỷ đồng, nếu không lo được mức án trên tôi sẽ có trách nhiệm số tiền mà gia đình đã đưa cho ông Đoàn Tùng A8 lại hoàn trả lại cho gia đình số tiền đã chuyển cho ông A8 1.700.000.000đ một tỷ bảy tẳm triệu đồng chẵn”.

Sau khi Đoàn Tùng A8 không thực hiện được theo thỏa thuận được thì A liên hệ với Phạm Thanh A11 để tiếp tục chạy án cho Kim A26, Thanh A11 đồng ý và hứa sẽ lo được cho Kim A26 mức án từ 12 đến 18 năm tù với chi phí là 2.500.000.000 đồng. A báo lại cho chị Nguyễn Thị A27 tiền giá chạy án là 2.700.000.000 đồng, chị A27 đồng ý và hứa xong việc được như thỏa thuận thì A sẽ được thưởng thêm 300.000.0000 đồng nữa. Sau khi A liên hệ, Thanh A11 báo cho Bùi Hoàng A4 (bạn xã hội của A11) việc A nhờ chạy án cho Kim A26, A4 nhận sẽ chạy án cho Kim A26 được án tù có thời hạn, Thanh A11 và A4 thỏa thuận số tiền chạy án cho Kim A26 là 2.200.000.000 đồng. Ngày 28/4/2020, A nhận tiền từ Nguyễn Thị A27 và viết giấy nhận tiền. Cùng ngày 28/4/2020, A đã chuyển 2.500.000.000 đồng đến số tài khoản 21410001053883 mở tại Ngân hàng BIDV mang tên Quản Đình A29 (Thanh A11 yêu cầu A chuyển đến tài khoản của anh A29) để chạy án cho Kim A26 và giữ lại 200.000.000 đồng sử dụng cá nhân. Sau khi nhận 2.500.000.000 đồng, Thanh A11 A anh A29 chuyển tiền cho Bùi Hoàng A4, ngày 29/4/2020 anh A29 chuyển cho A4 1.700.000.000 đồng (A4 cho Thanh A11 giữ lại 500.000.000 đồng để sử dụng chi tiêu cá nhân và sẽ đòi sau). Sau khi nhận được tiền, Bùi Hoàng A4 đã liên hệ với anh Phan Tiến A30 là luật sư tập sự tại Văn phòng luật sư PH để thuê luật sư bào chữa cho Kim A26 và gửi bản kết luận điều tra vụ án của Kim A26, thỏa thuận phí thuê luật sư là 40.000.000 đồng, A4 là người trả tiền thuê cho anh Phan Tiến A30. Văn Phòng luật sư PH đã làm thủ tục đăng ký bào chữa để Luật sư Phạm Duy A31 bào chữa cho Kim A26. Sau khi Thanh A11 chuyển tiền cho A4, bà A24 yêu cầu A đưa đi gặp người mà A nhờ thì A liên hệ với Thanh A11, Thanh A11 cho số điện thoại của A4 để gửi lại cho bà A24. Sau đó, bà A24 cùng anh Bùi Ngọc A28 gặp A4 tại đường HV, quận BĐ để hỏi về việc chạy án cho Kim A26 thì A4 cam kết sẽ giúp cho Kim A26 được án số (tù có thời hạn) để bà A24 yên tâm.

Ngày 11/5/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đưa vụ án ra xét xử nhưng do vắng mặt luật sư của Văn phòng luật sư GN là Đoàn Tùng A8 và anh Nguyễn Sơn A29 nên đã hoãn phiên tòa. Ngày 18/5/2020, luật sư Phạm Duy A31 được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cấp thông báo tham gia bào chữa. Ngày 8/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đưa vụ án ra xét xử, tuyên phạt Kim A26 hình phạt tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Sau khi kết thúc phiên xử, Trạc Văn A cùng vợ chồng bà A24, anh A28, Thanh A11 và A4 đến căn hộ số 203, chung cư Imperia ở số 203, phố NHT, quận TX, Thành phố Hà Nội (nhà của Đào Trung A32, sinh năm 1981 - là bạn của A, A11 và A4) để bàn bạc việc đã chuyển tiền cho A4 và Thanh A11 nhưng Kim A26 vẫn bị tuyên án tử hình. Tại đây, A4 nói với mọi người việc Kim A26 bị tuyên án tử hình là do bị thiếu tiền nên không xin được. Sau đó, tất cả thống nhất A4 vẫn tiếp tục lo cho Kim A26, làm thủ tục kháng cáo và A4 tiếp tục yêu cầu Văn Phòng luật sư PH bào chữa cho Kim A26. Thời gian sau, luật sư Phạm Duy A31 được Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội thông báo bào chữa cho Kim A26.

Ngày 24/6/2020, A4 vào nhà bà A24 tại tỉnh Tây Ninh gặp bà A24 và chị A27. Tại đây, A4 yêu cầu chị A27 chuyển thêm cho A4 500.000.000 đồng để lo chạy án cho Kim A26 và nói trước đó A4 đáng lẽ đã xin được cho Kim A26 mức án 20 năm tù nhưng do A đưa thiếu 500.000.000 đồng nên không xin được. Bà A24 nói không có tiền thì A4 nói cứ ứng trước 500.000.000 đồng đưa cho A4, sau đó A4 sẽ yêu cầu A trả 300.000.000 đồng, A11 trả lại 200.000.000 đồng. A4 và A có nhắn tin trao đổi với nhau về việc A chuyển cho A11 2.500.000.000 đồng nhưng A11 chuyển lại cho A4 1.700.000.000 đồng, Thanh A11 và A4 thỏa thuận là 2.200.000.000 đồng, bị thiếu 500.000.000 do A11 giữ lại nên A4 không lo được giảm án cho Kim A26. A đòi A11 nhưng A11 không trả lại cho A4 nên giữa A với A11 và A4 xảy ra mâu thuẫn. Thời gian này, bà A24 không có tiền để đưa cho A4 thì A4 nói với chị A27 làm đơn tố cáo A8 và A để đòi lại số tiền 1.700.000.000 đồng để có tiền đưa cho A4. A4 làm đơn và gửi vào Tây Ninh cho bà A24 ký rồi A27 gửi ra cho A4 để A4 gửi đến các cơ quan chức năng tố cáo. A4 đã trực tiếp vào Tây Ninh gặp bà A24 và A27 để hướng dẫn bà A24 viết gửi nhiều đơn tố cáo đến các cơ quan chức năng tố cáo A và Văn phòng luật sư GN về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản để đòi lại số tiền 1.700.000.000 đồng mà Văn phòng luật sư GN đã nhận để lo chạy án cho Kim A26.

Sau khi bà A24 gửi đơn tố cáo thì A8 yêu cầu bà A24 rút đơn tố cáo thì sẽ trả lại tiền nên bà A24 đồng ý. A8 hướng dẫn A đưa bà A24 ra Công an phường HT, quận HK để rút đơn tố cáo. Đến tháng 01/2021, Đoàn Tùng A8 mới kê khai và nộp thuế đối với các khoản thu từ các hợp đồng dịch vụ pháp lý ký với bà A24 tại Chi cục thuế quận HK, tổng số tiền là 105.000.000 đồng nhưng sau đó Đoàn Tùng A8 cũng không trả lại số tiền 1.400.000.000 đồng cho bà A24.

Ngày 11/11/2020, bà A24 có đơn từ chối luật sư Phạm Duy A31. A4 và Thanh A11 cũng không tham gia nữa nhưng cũng không trả lại cho bà A24 số tiền 2.500.000.000 đồng nên bà A24 làm đơn tố cáo.

Ti bản kết luận giám định số 243/GĐKTHS-P11 ngày 9/11/2020 của Phòng Giám định kỹ thuật Hình sự - Bộ Quốc phòng kết luận: “...chữ viết phần nội dung, chữ ký, chữ viết ghi họ tên Trạc Văn A cần giám định trên tài liệu ký hiệu A1 và A2 với chữ ký, chữ viết mẫu so sánh ghi của Trạc Văn A trên tài liệu ký hiệu M1 là do cùng một người viết, ký ra.” Tại bản kết luận giám định số 6882/KLGĐ-PC09-Đ3 ngày 23/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “…chữ viết có nội dung: Ngày 14/6/2019 em TRẠC VĂN A: nhận của chị A10: 20:0 hai trăm triệu, chữ viết dòng họ tên Trạc Văn A (dưới chữ ký) trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ viết đứng tên Trạc Văn A trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 là chữ do cùng một người viết ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên Trạc Văn A trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ ký đứng tên Trạc Văn A trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 có phải là chữ do cùng một người ký ra hay không”.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 336/2022/HS-ST ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên bố các bị cáo Trạc Văn A, Phạm Thanh A11, Bùi Hoàng A4 và Đoàn Tùng A8 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trạc Văn A 15 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/5/2021.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Hoàng A4 15 năm tù; tổng hợp với 09 tháng tù tại Bản án 01/2020/HSPT ngày 03/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 15 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2021, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2018 đến ngày 31/01/2019.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt Phạm Thanh A11 13 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2021.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Tùng A8 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021 đến ngày 16/8/2021.

Ngoài ra bản án còn buộc trách nhiệm bồi thường dân sự; trách nhiệm chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử, ngày 12/9/2022 bị cáo Đoàn Tùng A8 và ngày 15/9/2022 bị cáo Trạc Văn A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 15/9/2022 bị cáo Bùi Hoàng A4 có đơn kháng cáo kêu oan; ngày 14/9/2022 bị hại Lương Thị A24 có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo Trạc Văn A, Bùi Hoàng A4 và Phạm Thanh A11. Tại phiên tòa phúc thẩm những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo; bà Lương Thị A24 khẳng định bà chỉ kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo chưa trả tiền cho bà đó là bị cáo Trạc Văn A, Bùi Hoàng A4, Phạm Thanh A11; bà không kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo Đoàn Tùng A8.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trạc Văn A trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 15 năm tù là quá nặng; bị cáo đã ý thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật, quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Đoàn Tùng A8 trình bày: Thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã quy kết, nhưng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực giúp cơ quan Điều tra trong việc phát hiện tội phạm; đã khắc phục triệt để hậu quả; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

- Bị cáo Bùi Hoàng A4 trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có căn cứ, bị cáo bị oan; việc Phạm Thanh A11 chuyển tiền cho bị cáo là tiền vay nợ, sau khi A11 chuyển tiền thì bị cáo đã hủy giấy vay nợ đi; việc bị cáo gặp bà A24 là vô tình tại đám tang ở thành phố Hồ Chí Minh, bà A24 đã khóc lóc kể cho bị cáo nghe chuyện con bà A24 bị bắt, nên bị cáo đã giúp bà A24 trong việc thuê Luật sư, nên bị cáo đã yêu cầu bà A24 chuyển cho bị cáo 500 triệu đồng là phí thuê Luật sư, nhưng bà A24 không chuyển nên bị cáo đã tự tìm và bỏ ra 40 triệu đồng để thuê Luật sư bào chữa cho con bà A24; bị cáo hoàn toàn không biết được việc chạy án như thế nào; còn những tin nhắn giữa bị cáo với A11, giữa bị cáo với chị A27 (con bà A24) có thể hiện việc đòi lại tiền nhưng đó là bị cáo thấy A11, A mâu thuẫn với nhau về việc tiền nong, nên bị cáo đã tự nhắn để A11 và A không đánh nhau. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét minh oan cho bị cáo.

- Bị cáo Phạm Thanh A11 trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết; giữa bị cáo với Trạc Văn A thỏa thuận với nhau tiền chạy án là 2.500.0000.0000đ; bị cáo thỏa thuận với Bùi Hoàng A4 là 2.200.000.000đ, bị cáo hưởng chênh lệch 300.000.000đ, nhưng thực tế bị cáo mới chuyển cho A4 1.700.000.000đ, còn lại 500.000.000đ A4 cho bị cáo mượn hôm sau chuyển trả cho A4.

- Bị hại Lương Thị A24 trình bày: Bà Khẳng định lời khai của bị cáo A8, A11, A tại phiên tòa phúc thẩm là đúng, còn lời khai của bị cáo A4 là không đúng; chính bị cáo A4 đã vào trực tiếp nhà bà yêu cầu bà chuyển tiếp 500.000.000đ mới lo chạy án cho con gái bà là Kim A26 được, nhưng do hết tiền nên bà không đồng ý. Bà đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo A, A4, A11 và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Đoàn Tùng A8.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo; đánh giá các chứng cứ cho rằng, cấp sơ thẩm quy kết đối với bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và xử phạt các bị cáo mức hình phạt như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt, bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo nhưng không có căn cứ gì mới nên không có căn chấp nhận.

Từ các phân tích trên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và bị hại, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Các Luật sư bào chữa cho bị cáo Trạc Văn A phát biểu bài bào chữa: Kng tranh luận gì về tội danh; chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan Điều tra để sớm kết thúc vụ án; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai đã chuyển cho Đào Trung A32 384.000.000đ; tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm được một số tài liệu như giấy khen, giấy chứng nhận thành tích, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đủ điều kiện áp dụng điều 54 Bộ luật Hình sự để cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo Đoàn Tùng A8 trình bày: Về tội danh, hình phạt không có ý kiến tranh luận gì; bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như khai báo thành khẩn, khắc phục triệt để hậu quả, tại các phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bố, mẹ bị cáo là người có công được tặng huân chương, bị cáo đang là người chăm sóc có xác nhận; bị cáo có nhiều đóng góp cho các phong trào từ thiện, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Thanh A11 trình bày: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, có nhân thân tốt, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, 03 con còn nhỏ, bị cáo đã cố gắng khắc phục hậu quả được số tiền 50.000.000đ cho bị hại; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

* Các Luật sư bào chữa cho bị cáo Bùi Hoàng A4 phát biểu:

- Luật sư Trần Đình A18 trình bày: Xuất phát từ vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội do Kim A26 thực hiện đã bị xét xử, nhưng vụ án này có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và hai vụ án này có liên quan đến nhau; trong vụ án này đã đủ yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ đối với ông A33 và chị A27 vì những người này không tố cáo hành vi nhận hối lộ mà chính bị cáo A4 là người giúp sức bà A24 làm đơn tố cáo; tiền bà A24 bỏ ra chạy án là tiền bất hợp pháp nên phải thu hồi nhưng cấp sơ thẩm lại tuyên trả cho bà A24 là thiếu căn cứ, trái quy định của pháp luật.

Về tố tụng: Cơ quan Điều tra cho rằng là chị A27 bỏ đi khỏi nơi cư trú trong khi chị A27 có mặt tại phiên tòa hôm nay; bị cáo A4 là người mời Luật sư để bào chữa cho Kim A26, thậm chí còn bỏ ra 40.000.000đ để thuê Luật sư thay cho bà A24; trong hồ sơ vụ án không có lệnh dẫn giải bị cáo A4 từ PQ về Hà Nội, không có phương án, kế hoạch dẫn giải bị cáo A4, khi dẫn về không đưa về trụ sở cơ quan Công an lại dẫn bị cáo về nhà riêng tại đường BXT, tại đây bị cáo A4 bị đánh đập nên đã bỏ chạy và Điều tra viên Kiên đuổi theo làm nhiều người biết việc này. Về thu giữ tang vật có nhiều vi phạm, không niêm phong, không có bộ phận kỹ thuật, không giám định, chính bà A27 là người tự mở điện thoại; trong hồ sơ có khoảng 100 trang tài liệu thu thập bất hợp pháp, không có sự chứng kiến của đại diện Viện kiểm sát; biên bản làm việc được lập tại Công an phường CG, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 11 giờ trong khi bà A24 ở tại Tây Ninh là trái quy định.

Từ phân tích trên, Luật sư Trần Đình A18 đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nhập với vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy, cũng như xem xét trách nhiệm hình sự đối với những người đưa hối lộ.

- Luật sư Bùi Thị Thu A34 trình bày: Đồng ý với quan điểm của Luật sư A18; các tài liệu trong hồ sơ không thể hiện có sự bàn bạc việc chạy án; việc chuyển tiền giữa A11 và A4 là tiền vay và trả nợ; A4 yêu cầu đưa 500.000.000đ là chi phí để thuê Luật sư giúp bà A24. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

- Luật sư Nguyễn Hồng A19 Trình bày: Nhất trí với hai Luật sư trên; hồ sơ vụ án này có hai Kiểm sát viên tham gia nhưng quá trình điều tra không có bất kỳ bản cung nào tham gia, hoặc trực tiếp lấy cung các bị cáo; Từ đầu đến cuối bị cáo A4 không thừa nhận, việc chuyển tiền chỉ là chuyển tiền trả nợ giữa A11 và A4; cần làm rõ có hay không Điều tra viên vào PQ gọi A4 và A11, tại đây giữa A11 và A4 đã thừa nhận tiền trả nợ. Nhất trí với Luật sư A18, A34 đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

* Luật sư A25 bảo vệ cho bà A24 phát biểu: Các bị cáo chưa bồi thường cho bị hại; các bị cáo đều chiếm đoạt giá trị tiền gần gấp 4 lần mức khởi điểm của khung hình phạt; bị cáo A4 sau khi nhận 1.700.000.000đ sau đó bị cáo còn trực tiếp vào nhà bà A24 yêu cầu bà A24 phải chi phí tiếp 500.000.000đ, nên bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Do đó, đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo A4, A11 và A. Đối với bị cáo A8 đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại cho bà A24.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Trạc Văn A, Đoàn Tùng A8, Phạm Thanh A11 khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như quy kết của bản án sơ thẩm; lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo Bùi Hoàng A4 không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị cáo Trạc Văn A, Đoàn Tùng A8, Phạm Thanh A11, lời khai của bị hại Lương Thị A24; lời khai của những người làm chứng như chị A27, anh A28, chị A35; những lời khai này phù hợp với các tài liệu được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt là nội dung tin nhắn giữa Bùi Hoàng A4 với Trạc Văn A, giữa chị Nguyễn Thị A27 với Bùi Hoàng A4, kết quả sao lưu lịch sử giao dịch tại ngân hàng. Do đó Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở để kết luận: Ngày 23/4/2019, tại số 43 ngõ H, phường HT, quận HK, Thành phố Hà Nội. Trạc Văn A môi giới cho bà Lương Thị A24 gặp Đoàn Tùng A8 là trưởng Văn phòng Luật sư GN để A8 bào chữa và “chạy án” cho con gái bà A24 là Nguyễn Thị Kim A26, hai bên thỏa thuận tổng chi phí là 3.000.000.000 đồng, trong đó tiền thuê Luật sư là 300.000.000 đồng, tiền “chạy án” là 2.700.000.000 đồng. Sau khi nhận được 300.000.000 đồng phí thuê luật sư và 1.400.000.000 đồng tiền “chạy án” với cam kết sẽ lo cho Kim A26 mức án từ 07 đến 15 năm tù, A8 đưa cho anh Nguyễn Sơn A29 100.000.000 đồng, chia cho Trạc Văn A 300.000.000 đồng (trong đó 100.000.000 đồng là tiền công môi giới trong số 300.00.000 đồng phí thuê luật sư, 200.000.000 đồng trong số tiền 1.400.000.000 đồng tiền “chạy án”). Sau đó, A8 tiếp tục yêu cầu bà A24 chuyển thêm 2.500.000.000 đồng nhưng mức án của Kim A26 là chung thân. Bà A24 không đồng ý và đòi lại tiền nhưng A8 không trả. Như vậy, bà Lương Thị A24 bị chiếm đoạt 1.400.000.000 đồng, trong đó Đoàn Tùng A8 hưởng lợi 1.200.000.000 đồng, Trạc Văn A hưởng lợi 200.000.000 đồng. Ngày 28/4/2020, Trạc Văn A tiếp tục giới thiệu để Phạm Thanh A11 “chạy án” cho Kim A26, hai bên thỏa thuận mức giá là 2.500.000.000 đồng và sẽ lo cho Kim A26 mức án từ 12 đến 18 năm tù. Trạc Văn A thông báo lại với gia đình bà A24 và tự nâng giá thành 2.700.000.000 đồng, gia đình bà A24 đồng ý. Sau khi nhận được 2.700.000.000 đồng từ gia đình bà A24, A chuyển cho Phạm Thanh A11 2.500.000.000 đồng, A11 chuyển cho Bùi Hoàng A4 1.700.000.000 đồng để “chạy án” cho Kim A26 (Phạm Thanh A11 thỏa thuận với Bùi Hoàng A4 mức giá chạy án cho Kim A26 là 2.200.000.000 đồng, Bùi Hoàng A4 cho A11 giữ lại 500.000.000 đồng và sẽ đòi lại sau). Sau khi nhận tiền của gia đình bà Lương Thị A24, Trạc Văn A, Phạm Thanh A11, Bùi Hoàng A4 và Đoàn Tùng A8 không thực hiện như cam kết mà chiếm đoạt để chi tiêu cá nhân. Với những hành vi phạm tội nêu trên, Toà án cấp sơ thẩm xét xử, quy kết các bị cáo Trạc Văn A, Bùi Hoàng A4, Phạm Thanh A11 và Đoàn Tùng A8 về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan. Tại phiên tòa phúc thẩm một số người bào chữa cho bị cáo A4 cho rằng, quá trình điều tra có nhiều vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, các Luật sư cũng không xuất trình được chứng cứ gì để chứng minh, hoặc tuy có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng những vi phạm này không nghiêm trọng, không làm thay đổi bản chất vụ án, nên các Luật sư đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại không có căn cứ chấp nhận.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có am hiểu pháp luật nhưng vì hám lợi đã dùng thủ đoạn gian dối tạo niềm tin để chiếm đoạt tài sản của người khác với số tiền lớn. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người bị hại, gây tâm lý hoang mang, tạo dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan thực thi pháp luật nên cần phải xử phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do các bị cáo chiếm đoạt tài sản trên 500.000.000đ nên cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Trạc Văn A, Bùi Hoàng A4, Đoàn Tùng A8 và kháng cáo của bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo A4, A11, A, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên thì các bị cáo không bị oan, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá đúng tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, xem xét áp dụng đầy đủ cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo A, A11, A8 thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo A8 đã khắc phục triệt để hậu quả, bị cáo A11 đã bồi thường được một phần trách nhiệm dân sự, bị cáo A là người dân tộc thiểu số cũng như tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là bị cáo A, A8 phạm tội từ 02 lần trở lên, bị cáo A4 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Từ đó xử phạt các bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo A, A8 xuất trình một số tài liệu như giấy khen của bị cáo A trong quá trình học tập, giấy xác nhận bị cáo A8 có đóng góp cho trung tâm dạy nghề và Hướng nghiệp Đông Anh. Tuy nhiên, những tình tiết này không đáng kể so với hành vi phạm tội của bị cáo; bị cáo A4 không có thêm tình tiết gì mới đáng kể làm căn cứ giảm nhẹ. Do đó, mức hình phạt đối với các bị cáo như bản án sơ thẩm là phù hợp, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo cũng như kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo A4, A11, A của bị hại. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của bị hại giữ nguyên hình phạt như bản án sơ thẩm là có căn cứ. Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Các bị cáo không được chấp nhận kháng cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm, bị hại có kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trạc Văn A, Đoàn Tùng A8, Bùi Hoàng A4; không chấp nhận kháng cáo của bị hại là bà Lương Thị A24; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 336/2022/HS-ST ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, cụ thể: Tuyên bố các bị cáo Trạc Văn A, Phạm Thanh A11, Bùi Hoàng A4, Đoàn Tùng A8 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt Trạc Văn A 15 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/5/2021.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự; xử phạt Bùi Hoàng A4 15 năm tù. Tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án hình sự số 01/2020/HSPT ngày 03/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 15 năm 09 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2021, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2018 đến ngày 31/01/2019.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Thanh A11 13 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2021.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Tùng A8 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021 đến ngày 16/8/2021.

Về án phí: Các bị cáo Trạc Văn A, Bùi Hoàng A4, Đoàn Tùng A8 mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm, bà Lương Thị A24 không phải chịu án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 336/2022/HS-ST ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

466
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 57/2023/HS-PT

Số hiệu:57/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về