Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 30/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 26/08/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2020/TL-HSST ngày 23/7/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS ngày 13/8/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/7/1994 Nơi cư trú: Tổ X, phường T, thành phố P, tỉnh G; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; bố: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1974; mẹ: Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1973; vợ, con: không; bố, mẹ bị cáo làm lao động tự do tại phường T, thành phố P, tỉnh G; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/5/2021 đến nay, có mặt.

Người bị hại: anh Trần Lâm T, sinh năm 1982 Nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện S, tỉnh V, có mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Duy Quang, sinh năm 1994.

Nơi cư trú: Lô 3x, B, P. H,  thành phố P, tỉnh G, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Đức Cường, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: Tổ 1x, P. T,  thành phố P, tỉnh G, vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Thành Công, sinh năm 1987

Nơi cư trú: phường D,  thành phố P, tỉnh G, vắng mặt.

4. Anh Huỳnh Lan Phương, sinh năm 1993

Nơi cư trú: 3x H, P. Y,  thành phố P, tỉnh G, vắng mặt.

5. Chị Nguyễn Thị Ngọc Dung, sinh năm 1973

Nơi cư trú: tổ 1, phường T,  thành phố P, tỉnh G, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội mạng Facebook, Nguyễn Văn T biết nhiều người có nhu cầu mua đồ gỗ thành phẩm các loại về sử dụng, T lập tài khoản rồi đăng quảng cáo lên Facebook và khi thấy có người mua thì đến các cửa hàng đặt làm đồ gỗ theo yêu cầu của khánh hàng để bán kiếm lời. T khai nhận, khoảng đầu năm 2019 qua mạng xã hội Facebook đã quen biết đối tượng tên Sơn ở huyện Kôngchro, tỉnh G có tài khoản “Tài lộc Mỹ nghệ”, T có 02 lần gặp Sơn tại huyện Kôngchro và  thành phố P để bàn việc buôn bán làm ăn, hai người thống nhất với nhau Sơn sẽ chạy quảng cáo rao bán đồ gỗ trên mạng xã hội, khi có khách đặt hàng thì T sẽ tìm mua đỗ gỗ theo yêu cầu của khách để bán. Trong quá trình hợp tác với nhau, cả hai thấy nhiều người đặt mua hàng qua mạng xã hội rồi dễ dàng chuyển tiền vào tài khoản cho T và Sơn mà không cần phải gặp gỡ, kiểm tra hay nhận được hàng xong thì mới thanh toán, từ đó cả hai đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của khách hàng. Khoảng cuối tháng 3/2020, T và Sơn thống nhất cùng nhau lừa bán hàng đỗ gỗ qua Facebook để chiếm đoạt tiền, Sơn sẽ chạy quảng cáo và khi có khách đặt mua đồ gỗ thì sẽ đứng ra giao dịch để khách chuyển tiền vào tài khoản của T, sau đó T ra cây ATM rút tiền về chia nhau. Bằng thủ đoạn như trên, từ ngày 28/3/2020 đến 29/4/2020, T và Sơn đã lừa bán cho anh Trần Lâm T 01 tượng di lặc vác đào bằng gỗ hương; 01 tượng đạt ma bằng gỗ trắc; 02 tượng quan công bằng gỗ trắc; 01 tượng di đà bằng gỗ trắc; 01 cặp lục bình bằng gỗ hương; 01 tượng hoả kỳ lân bằng gỗ nu hương; 01 tượng long quy bằng gỗ nu hương; 01 bức tranh song long bằng gỗ nu hương; 01 bức tranh vinh quy bái tổ bằng gỗ nu hương; 01 bộ bàn ghế đồng kỵ bằng gỗ cẩm lai; 01 bộ bàn ghế ăn cơm bằng gỗ cẩm lai; 01 bộ bàn ghế trúc tây bằng gỗ trắc; 01 tượng phúc thọ bằng gỗ nu hương, tổng số hàng trị giá là 98.000.000đ. Sau khi xem các quảng cáo trên tài khoản Facebook “Tài lộc Mỹ nghệ”, anh T đã 11 lần chuyển tiền từ tài khoản 2800205148210 mang tên Tran Lam Toi tại Ngân hàng Agibank Chi nhánh Sông Lô, Vĩnh Phúc vào số tài khoản 0291000351561 mang tên Nguyen Van Tuan tại Ngân hàng Vietcombank Chi nhánh Bình Phước theo yêu cầu của Sơn, lần ít nhất có số tiền là 1.000.000đ và lần nhiều nhất là 11.000.000đ. Khi thấy anh T chuyển tiền vào tài khoản, T liền sử dụng số tiền này để chuyển khoản trả nợ cho anh Nguyễn Duy Quang là 356.000đ; Nguyễn Đức Cường là 2.006.600đ; Nguyễn Thành Công là 502.200đ; chị Huỳnh Lan Phương là 1.502.200đ; số còn lại T dùng thẻ ra cây ATM trên địa bàn  thành phố P rút lấy tiền mặt về chia cho Sơn 40.000.000đ và chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi chuyển tiền, anh T liên lạc qua tài khoản Facebook “Tài lộc Mỹ nghệ” nhưng không thấy chuyển hàng đồ gỗ theo như cam kết thì mới biết mình bị lừa đảo chiếm đoạt số tiền trên, anh T có đơn trình báo Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Lô đề nghị giải quyết. Khi tiếp nhận được uỷ thác điều tra, ngày 04/5/2021 Cơ quan CSĐT Công an  thành phố P, tỉnh G triệu tập T đến làm việc, T đã khai nhận rõ hành vi chiếm đoạt tiền của anh T và tự nguyện giao nộp Cơ quan điều tra số tiền 98.000.000đ để bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại.

Tại bản kết luận giám định số 2414/KLGĐ ngày 24/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “2786 tin nhắn Facebook Messenger từ tài khoản được đăng nhập trên điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG của anh Trần Lâm T có tên “Tài lộc Mỹ nghệ”. Toàn bộ tin nhắn được lưu trên tệp tin văn bản có tên: Tin nhắn Facebook Messenger kèm theo KLGĐ 2414.doc, kích thước 6.17MB in trong 01 đĩa DVD. Chụp được 08 ảnh thông tin tài khoản có tên “Tài lộc Mỹ nghệ”.

Nguyễn Văn T khai nhận năm 2019 quen biết Sơn qua mạng xã hội Facebook, chỉ thấy Sơn giới thiệu là cư trú ở huyện Kôngchro - Gia Lai, T có 02 lần gặp Sơn tại quán ăn trên địa bàn huyện Kôngchro và  thành phố P để bàn chuyện làm ăn nhưng không biết rõ lý lịch, địa chỉ cụ thể của Sơn; Sơn là người lập tài khoản Facebook “Tài lộc Mỹ nghệ” và đứng ra giao dịch với anh Trần Lâm T để lừa chiếm đoạt tài sản; bản thân anh T cũng không xác định được ai là người trực tiếp giao dịch bán đồ gỗ và chiếm đoạt tiền của anh. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh tại địa bàn huyện Kôngchro - Gia Lai nhưng không xác định được đối tượng Sơn và ai có đặc điểm như T khai báo. Ngoài lời khai của T thì không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh được Sơn có hành vi đồng phạm với T trong vụ án, Cơ quan điều tra tách ra khi nào triệu tập được Sơn thì làm rõ xử lý.

Đi với anh Nguyễn Duy Quang; Nguyễn Đức Cường; Nguyễn Thành Công và chị Huỳnh Lan Phương là những người được Nguyễn Văn T chuyển khoản trả nợ tiền. Bản thân T không nói và những người này không biết đó là tiền do T phạm tội mà có, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 21 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô truy tố Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên – đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/5/2021.

Kng áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xác nhận ngày 08/10/2020 và ngày 15/5/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Trần Lâm T 01 điện thoại di động cũ, SAMSUNG Galaxy A7 màu đen, màn hình có vết nứt vỡ và số tiền 98.000.000đ (chín mươi tám triệu đồng).

u giữ trong hồ sơ vụ án 01 thẻ ATM Ngân hàng Vietcombank mang trên Nguyễn Văn T.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi lừa đảo lừa đảo để chiếm đoạt tổng số tiền 98.000.000đ, như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, ngoài ra không có lời bào chữa nào khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Lô, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: trong khoảng thời gian từ ngày 28/3/2020 đến 29/4/2020, thông qua mạng xã hội Facebook tài khoản “Tài lộc Mỹ nghệ” Nguyễn Văn T đã nhiều lần có hành vi lừa bán một số đồ gỗ để chiếm đoạt tổng số tiền 98.000.000đ của anh Trần Lâm T, T đã sử dụng tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết số tiền trên.

Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo, lời khai của người bị hại, người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:… c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo, gây nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo không chịu lao động mà dùng thủ đoạn gian dối, lợi dụng lòng tin của anh T để lừa đảo chiếm đoạt tiền tiêu sài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Vì vậy, phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật và có hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, như vậy mới có tác dụng cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc, xem xét đến tính chất, cũng như mức độ thực hiện tội phạm và hậu quả xảy ra, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo dung thủ đoạn gian dối lừa bán đồ gỗ để anh T tưởng thật sau đó đã có 11 lần chuyển tiền vào tài khoản của bị cáo, trong đó có 09 lần bị chiếm đoạt với số tiền trị giá là từ 4.000.000đ đến 11.000.000đ nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bản thân bị cáo trước khi phạm tội có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải về vi phạm tội của mình; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả và người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đây là những tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định, như vậy mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo hai bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có việc làm ổn định, kinh tế gia đình khó khăn. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng vụ án gồm có: 01 điện thoại di động cũ SAMSUNG Galaxy A7 màu đen, màn hình có vết nứt vỡ của anh Trần Lâm T; số tiền 98.000.000đ (chín mươi tám triệu đồng) do Nguyễn Văn T giao nộp. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T chiếc điện thoại và trả số tiền 98.000.000đ (chín mươi tám triệu đồng) là đúng chủ sở hữu, nên được xác nhận.

- 01 thẻ ATM Ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Văn T là vật chứng chứng minh tội phạm cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/5/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xác nhận ngày 08/10/2020 và ngày 15/5/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Trần Lâm T 01 điện thoại di động cũ, SAMSUNG Galaxy A7 màu đen, màn hình có vết nứt vỡ; số tiền 98.000.000đ (chín mươi tám triệu đồng).

01 thẻ ATM Ngân hàng Vietcombank mang trên Nguyễn Văn T là vật chứng chứng minh tội phạm cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1486
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 30/2021/HSST

Số hiệu:30/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về