Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 370/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 370/2021/HS-PT NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 319/2021/TLPT-HS ngày 11/5/2021 đối với bị cáo H1 và đồng phạm bị xét xử về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của các bị cáo và của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS-ST ngày 01/04/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ tên: H1; Tên gọi khác: Amĭ Thiếp, Amĭ Jôly; Sinh năm 1985 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn A, xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 2/12; giới tính: Nữ; con ông Y Ông Kbuôr (Đã chết) và bà H Mân Kriêng, có chồng tên Y Biăn Êban và có 02 con, con lớn sinh năm 2003 và nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 cho đến ngày 19/02/2020 thì được chuyển sang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại, vắng mặt tại phiên toà.

2. Họ tên: H2; Tên gọi khác: Amĭ Wal; Sinh năm 1976 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Ren Niê và bà H’ Em Ayũn, có chồng là Y DJhông Niê và có 08 con, con lớn nhất sinh năm 1994 và nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ tên: H3; Tên gọi khác: Amĭ Duka; Sinh năm 1971 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn P, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn:

3/12; con ông Y Bên Niê (đã chết) và bà Lê Thị Châu (đã chết); có chồng là Y Tuấn Niê và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1992; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

4. Họ tên: H4; Tên gọi khác: Amĭ Sueñ; Sinh năm 1979 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Yuôm Niê và bà H’ Mŭk Bkrông, có chồng là bị cáo Y Pem Byã và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 cho đến ngày 21/8/2020 thì được chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.

5. Họ tên: H5; Tên gọi khác: Amĭ Bêra; Sinh năm 1981, tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn K1, xã E5, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Y Krênh Niê và bà H’ Đat Ksơr (đã chết); có chồng là Y Blơi Niê và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 cho đến ngày 07/10/2019 thì được chuyển sang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

6. Họ tên: H6; Tên gọi khác: Amĭ Navi; Sinh năm 1981 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E6, phường K2, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 2/12; con ông Y Khía Êban (Đã chết) và bà H Nin Niê, có chồng là Y KNap Byã và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 cho đến ngày 24/8/2019 thì được chuyển sang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.

7. Họ tên: Y1; Tên gọi khác: Ama Khiñ; Sinh năm 1969 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Nĩk Niê (đã chết) và bà H’ Bur Byă (đã chết); có 02 vợ, vợ sau là H’ Ril Bkrông (là bị cáo trong vụ án) và có 09 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 cho đến ngày 21/8/2020 được chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.

8. Họ tên: H7; Tên gọi khác: Amĭ Quynh; Sinh năm 1982 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 2/12; con ông Y Tuel Byã và bà H’ Dơi Ayũn, có chồng là Y Biêng Niê Kdăm (đã chết) và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

9. Họ tên: H8; Tên gọi khác: Amĭ Sôl; Sinh năm 1983 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn:

6/12; con ông Y Suk Êban và bà H’ Ruê ÊÑuôl, có 02 đời chồng là Y Brơp Knul (có 01 con chung) và Võ Nguyễn Hoàng Sơn (có 03 con chung), con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

10. Họ tên: H9; Tên gọi khác: Amĭ Tǔk; Sinh năm 1984 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Y Yuôm Niê và bà H’ Mŭk Bkrông, có chồng là Y Dăi Byă và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

11. Họ tên: H10; Tên gọi khác: Amǐ Kiên; Sinh năm 1986 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: tin lành; Trình độ học vấn: 6/12; con ông Y Prŭng Niê (đã chết) và bà H’ Buăn Êban, có chồng là Chiu A Nhị (đã chết) và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

12. Họ tên: H11; Tên gọi khác: Amĭ Vân; Sinh năm 1970 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn:

1/12; con ông Y Dlal Niê (đã chết) và bà H’ Ngui Ayũn (đã chết); có chồng là Y Bruê Niê và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1997; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 cho đến ngày 24/8/2019 thì được chuyển sang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.

13. Họ tên: H12; Tên gọi khác: Amĭ Uyên; Sinh năm 1991 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn YE xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

11/12; con ông Y Wĭn Byã và bà H’ Lŭm Niê, có chồng là Y Tân Bkrông và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020 thì chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

14. Họ tên: H13; Tên gọi khác: Amĭ Ngắt; Sinh năm 1983 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Ren Niê và bà H’ Em Ayũn, có chồng là Y Bŏ Niê và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

15. Họ tên: H14; Tên gọi khác: Amĭ Tôn; Sinh năm 1983 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

7/12; con ông Y Jŏc Niê và bà H’ Dơt Ayũn, có chồng là Y Thương Niê và có 02 con, con lớn sinh năm 2004 và con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự:

Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020 được chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại,vắng mặt tại phiên tòa.

16. Họ tên: H15; Tên gọi khác: Amĭ Trăm; Sinh năm 1965 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 5/10; con ông Y BLâm Êban (đã chết) và bà H’ Ngông Niê (đã chết); có chồng là Y Yi Ayũn (đã chết) và có 05 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

17. Họ tên: H16; Tên gọi khác: H Buan; Sinh năm 1987 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ văn hoá: 6/12; con ông Y Nan Ayun và bà H Lunh Niê, có chồng là Y Tùng Ayun và có 03 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ nhất năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên toà.

18. Họ tên: H17; Tên gọi khác: Amĭ Khơn; Sinh năm 1968 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn Gram B, xã Ea Đrơng, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 4/12; con ông Y BLơi Byã và bà H’ Nguôn A Yun (đã chết); có chồng là Y Huân Niê (đã chết) và có 06 con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

19. Họ tên: H18; Tên gọi khác: Amĭ Kê Sia; Sinh năm 1988 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 11/12; con ông Y Yuôm Niê và bà H’ Mŭk Bkrông, có chồng là Điểu Trực và có 03 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

(Các bị cáo H4, H18, H9 là chị em ruột).

20. Họ tên: H19; Tên gọi khác: Amĭ Noar; Sinh năm 1973 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn J, xã E8, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Jơ Niê (Đã chết) và bà H’ Ok Ayŭn, có chồng là Y Phương Niê và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên toà.

21. Họ tên: H20; Tên gọi khác: Amĭ Bǔn; Sinh năm 1968 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 0/12; con ông Y Bhuat Hwinh (đã chết) và bà H Jun Niê (Đã chết); có chồng là Y Nên Ayũn và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

22. Họ tên: H21; Tên gọi khác: Amĭ Je Hun; Sinh năm 1978 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 10/12; con ông Y Set Bdap và bà H Wưn Bkrông; có chồng là Y Wim Knul và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2020 cho đến ngày 22/8/2020 được chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

23. Họ tên: H22; Tên gọi khác: Amĭ Kiên; Sinh năm 1980, tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn T, xã E8, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn:

0/12; con ông Y Yŭ Niê và bà H’ Jŭ Mlô, có chồng là Y Rĭ Niê và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

24. Họ tên: H23; Tên gọi khác: Amĭ Tâm; Sinh năm 1970 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

6/12; con ông Y Đam Êban (đã chết) và bà H’ Knĭk ÊÑuôil, có chồng là Y Hơp Arul và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1994;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

25. Họ tên: H24; Tên gọi khác: Amĭ YuLi; Sinh năm 1982 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn YB, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Y Sáu Niê Kdăm và bà H’ Mơt Êban, có chồng là Y Tliơk Niê và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2020 cho đến 04/9/2021 được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

26. Họ tên: H25; Tên gọi khác: Amĭ H’Loai; Sinh năm 1965 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê Đê; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Y Tuôt ÊNuôl (đã chết) và bà H’ Dleh Niê Siêng (đã chết); có chồng là Y Yem Bkrông và có 07 con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 1999 ; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vắng mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo H1: Luật sư Đ, Văn phòng luật sư TN, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi luận cứ bào chữa cho bị cáo.

- Người bào chữa cho các bị cáo H4, H9: Bà Trần Thị Phương L – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

* Bị hại kháng cáo:

1. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1974; Địa chỉ: Số 243 thôn T1, xã Q, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

2. Ông Lê Văn H26 (Tên gọi khác: Thanh), sinh năm: 1963; Địa chỉ: Số 29 Đường L1, TDP4, Thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Ngưi phiên dịch: Ông Y A Tôn Niê; địa chỉ: 306 đường N, phường T3, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Ngoài ra trong vụ án này còn có 15 bị cáo cùng bị xét xử về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và còn có 11 bị hại nhưng không kháng cáo và không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019 H1, H16, H Mri Byă, H19, H6, H28, H17, H29, H5, H30, H24, H31, H32, H13, H15, H12, H33, H23, H34, H35, H36, Y2, H22, Y3, H4, H9, H18, H37, H38, H21, H39, Y1, H10, H40, H41, H42, H43, H44, Y4, H45, H46 cùng một số đối tượng khác đã cùng nhau thực hiện 101 vụ lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 1.692.500.000 đồng (Một tỷ sáu trăm chín mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng) và 01 chỉ vàng không xác định được giá trị do không thu hồi được, đối với 13 gia chánh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo là: bị cáo H1 là người chủ mưu đã bàn bạc với các bị cáo khác làm thành từng nhóm, phân công vai trò trong nhóm như: Đối tượng tìm gọi gia chánh, đối tượng đóng giả người có nhu cầu đặt tiệc (đám cưới, sinh nhật, mừng thọ...), đối tượng đóng giả cô dâu, chú rể đối tượng đóng giả chủ nhà nhằm mục đích tạo ra thông tin gian dối để các gia chánh tin tưởng đó là thật để ký hợp đồng đặt tiệc và cho ứng, mượn trước tiền để chuẩn bị đám, tiệc. Sau khi lấy được tiền mà gia chánh cho ứng mượn thì các bị cáo không đặt tiệc như đã thỏa thuận mà chiếm đoạt rồi chia nhau tiêu xài.

1. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh PP do bà Nguyễn Thị L4, sinh năm 1965, trú tại thôn TĐ, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, làm chủ cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 19/9/2018, tại nhà của gia đình H32 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H32 đã cùng H30 và H46 bàn bạc thống nhất. Theo đó H46 là người gọi gia chánh, H32 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái của H32 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 17.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H14 đã chia cho H30 số tiền 7.000.000 đồng còn mình lấy 10.000.000 đồng và không chia cho H46. Số tiền này H14 và Brih Ayŭn đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Vào trưa ngày 21/9/2018, tại nhà của gia đình H46 ở buôn P, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. H16 và H46 bàn bạc thống nhất, H46 là người gọi gia chánh và H16 đứng ra đã giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái của H16 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 12.000.000 đồng và 01 chỉ vàng có giá trị 3.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H16 không chia cho H46 mà dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Trưa ngày 15/10/2018, tại nhà của gia đình H46. H46 đã cùng H30 và một người có tên Amĭ Lát (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) bàn bạc thống nhất để H46 là người gọi gia chánh, Amĭ Lát là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền thì Amĭ Lát không chia tiền cho H46 và H30 mà sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: Trưa ngày 17/10/2018, tại nhà của gia đình H46 thì H46 cùng H30 và 02 đối tượng có tên Amĭ Lát, Amĭ Kưm (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) đã bàn bạc thống nhất cho H46 là người gọi gia chánh, đối tượng có tên Amĭ Kưm là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho em gái của Amĭ Kưm để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lừa lấy được tiền đối tượng tên Amĭ Kưm lấy 500.000 đồng, chia cho đối tượng Amĭ Lát số tiền 14.500.000 đồng, không chia cho H46 và H30.

Vụ thứ năm: Khoảng 14 giờ ngày 18/10/2018, tại nhà của gia đình H46, H46, H30, Y4 và 02 đối tượng có tên Ama Bái, Amĭ Sim (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) đã bàn bạc thống nhất để H46 là người gọi gia chánh còn Y4 và đối tượng có tên Ama Bái là những người trực tiếp đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc để lừa lấy 20.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị L4 (đối tượng có tên Ama Bái đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái). Sau khi lấy được tiền đối tượng Ama Bái và đối tượng Amĭ Sim lấy số tiền này không chia cho H30 và H46.

Vụ thứ sáu: Cùng vào ngày 18/10/2018 tại nhà H7 sau khi đối tượng có tên Ama Bái lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị L4. Thì Ama Bái đã rủ bà Nguyễn Thị L4 đi qua nhà H30 và đối tượng có tên Amĭ Lát. Lúc này Y4 tiếp tục đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái của Y4 lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó Y4 đã chia cho đối tượng Amĭ Lát 3.500.000 đồng còn Y4 16.500.000 đồng, không chia tiền cho H46 và H30. Số tiền này Y4 và Amĭ Lát đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ bảy: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/10/2018, tại nhà của gia đình H34 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H34 cùng với H15 và H28 cùng H46 bàn bạc thống nhất để H46 là người đứng ra gọi gia chánh còn H34, H15 và H28 là những người trực tiếp đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc để lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị L4. H34 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 6.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền thì H34 đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tám: Cũng tại nhà H DLĩun Sau khi H34 lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị L4 xong thì H15 tiếp tục đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho em gái để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H15 đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ chín: Sau khi H15 lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị L4 xong thì H28 tiếp tục đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho con gái của để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 4.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H28 đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười: Trưa ngày 28/10/2018, tại nhà của gia đình H46, H46 cùng với đối tượng có tên Amĭ Lát lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị L4. Trong đó H46 là người gọi gia chánh còn đối tượng có tên Amĭ Lát là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho chính mình để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 10.000.000 đồng.

Vụ thứ mười một: Vào ngày 09/11/2018, H40 biết được việc vào ngày 24/10/2018, mẹ ruột của mình là H15 cùng H20, đã thống nhất và bàn bạc với H46 để lừa bà Nguyễn Thị L4 chủ gia chánh PP để chia nhau tiêu xài nên H40 cũng nảy sinh ý định lừa đảo gia chánh lấy tiền tiêu xài theo cách thức lừa gia chánh của mẹ ruột của mình đã thực hiện. Để thực hiện ý định vào lúc khoảng 09 giờ ngày 09/11/2018, H40 đã đi đến nhà dì của mình tên Amĭ Mười ở ngã ba xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây thấy không có ai ở nhà H40 đã gọi điện thoại cho H46 nói với H46 tìm gia chánh đến nhà Amĭ Mười để ký hợp đồng đặt tiệc. Sau khi gọi điện khoảng 11 giờ cùng ngày thì H Gai Ayŭn đã dẫn bà Nguyễn Thị L4 đến nhà Amĭ Mười để gặp H40. Tại đây H40 đã giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho chính mình để lừa lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 13.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền của bà L4, H40 đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Đối với H46 khi gọi bà Nguyễn Thị L4 để cho các bị cáo khác lừa 11 vụ như trên mục đích là để lừa lấy 50.000 đồng/01 mâm từ bà Nguyễn Thị L4. Sau khi cùng đồng bọn thực hiện 11 vụ lừa đảo đối với bà Nguyễn Thị L4 thì H46 đã lấy của bà Nguyễn Thị L4 số tiền 16.500.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo H3, H14, H16, Y Niêu, H20, H15, H11, H40, H Brih đã chiếm đoạt của bà L4 tổng số tiền 158.500.000 đồng ( Một trăm năm mươi tám triệu năm trăm ngàn đồng và 01 chỉ vàng trị giá 3.000.000 đồng. Trong đó H14 chiếm đoạt 17.000.000 đồng, H16 chiếm đạot 12.000.000 đồng và 01 chỉ vàng trị giá 3.000.000 đồng, Y4 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Dũin Niê chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Iĩ Niê chiếm đoạt 5.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 4.000.000 đồng, H Duyn Niê chiếm đoạt 13.000.000 đồng còn các đối tượng A Ma Bái chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Nưr Mlô chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H Năr Niê chiếm đoạt 20.000.000 đồng và bị cáo H Gái A yũn đã chiếm đoạt tiền của bà L4 thông qua 16 vụ nêu trên với số tiền 16.500.000 đồng.

2. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Hiếu Hạnh do bà Nguyễn Thị Thương, sinh năm 1992, trú tại số nhà 29 Nguyễn Chí Thanh, tổ dân phố 2, thị trấn Phước an, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Sáng ngày 30/10/2018, tại nhà của gia đình H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đứng ra tổ chức cho H6, H31 lừa bà Nguyễn Thị Thương để lấy tiền. Trong đó H1 là người gọi gia chánh, H31 là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc mừng thọ cho bố để lừa lấy của bà Nguyễn Thị Thương số tiền 10.000.000 triệu đồng. Sau khi lấy được tiền H1 lấy 6.000.000 đồng, chia cho H6 và H31 mỗi người 2.000.000 đồng. H1, H6 và H31 đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo H3, H1, H6 và H31 đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Thương số tiền 10.000.000 đồng ( Mười triệu đồng). Trong đó H3 chiếm đoạt số tiền 6.000.000 đồn, H6 và H31 mỗi người chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng.

Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Hoàng Mỹ do bà Phạm Thị Hạnh, sinh năm 1970, trú tại tổ dân phố 16, thị trấn Phước An, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 19/11/2018, tại nhà của gia đình H Môi A Yŭn ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đứng ra tổ chức cho H6, H31 và Y3 lừa bà Phạm Thị Hạnh để lấy tiền. Trong đó H1 là người gọi gia chánh, Y3 và H6 là người đóng giả cô dâu chú rễ, H31 là người đóng giả mẹ cô dâu. Y3 là người đứng ra để giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới để lừa lấy của bà Phạm Thị Hạnh số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H1 lấy 3.000.000 đồng chia cho H6 2.000.000 đồng, H31 10.000.000 đồng và Y3 5.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng 09 giờ ngày 30/11/2018 tại nhà của H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. H1 đứng ra tổ chức cho H6, H Niêng Êñuôl và H4 lừa bà Phạm Thị Hạnh để lấy tiền. Trong đó H1 là người gọi gia chánh, H4 là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con H4 để lừa lấy của bà Phạm Thị Hạnh số tiền 20.000.000 đồng. Bà Phạm Thị Hạnh không mang theo đủ tiền nên chỉ đưa 14.000.000 đồng cho H4, còn 6.000.000 đồng đã chuyển qua tài khoản cho H42 (H42 chỉ tình cờ có mặt, không liên quan và không biết gì về việc lừa đảo gia chánh). Sau khi nhận được tiền qua tài khoản, bị cáo H42 đã đi rút 6.000.000 đồng này về đưa cho H4. Sau khi nhận đủ 20.000.000 đồng, H4 lấy 8.000.000 đồng chia cho H1 3.000.000 đồng, H6 5.000.000 đồng, H Niêng Êñuôl 4.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo H1, H4, H42, H6, H Niêng Êñuôl, H31 và Y3 đã chiếm đoạt của bà Hạnh tổng số tiền 40.000.000 đồng ( Bốn mươi triệu đồng). Trong đó bị cáo H1 6.000.000 triệu đồng, H Niêng Êñuôl 4.000.000 đồng, H6 7.000.000 đồng, H31 10.000.000 đồng, Y3 5.000.000 đồng và H4 8.000.000 đồng.

3. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Hội Hường do bà Đoàn Thị Bích Hường, sinh năm 1986, trú tại thôn Tân Đông, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Sáng ngày 19/11/2018 tại nhà của gia đình H30 tại Buôn HO xã E1, huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk. H30 và đối tượng có tên Amĭ Lát phối hợp với nhau để lừa lấy tiền của bà Đoàn Thị Bích Hường. Trong đó đối tượng có tên Amĭ Lát là người gọi gia chánh còn H30 là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của H30 để lừa lấy của bà Đoàn Thị Bích Hường số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H30 đã dùng để tiêu xài cá nhân, không chia cho đối tượng có tên Amĭ Lát.

Như vậy bị cáo H30 đã chiếm đoạt của bà Hường số tiền 20.000.000 đồng.

4. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Kiều Oanh do bà Diệp Phi Bảo, sinh năm 1977, trú tại tổ dân phố 7, thị trấn Phước An, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Sáng ngày 09/12/2018, tại nhà của gia đình H Mri Byă ở buôn Cuôr, xã Ea Mdroh, huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã đứng ra tổ chức cho H Mri Byă và H6 lừa bà Diệp Phi Bảo để lấy tiền. Trong đó H1 là người tìm gọi gia chánh, H Mri Byă đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái của H Mri Byă để lừa lấy của bà Diệp Phi Bảo số tiền 19.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền thì H1 lấy 5.000.000 triệu đồng chia cho H Mri Byă số tiền 9.000.000 đồng, H6 5.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy H1 cùng các bị cáo đã chiếm đoạt của bà Diệp Phi Bảo số tiền 19.000.000 đồng, trong đó bị cáo H1 chiếm đoạt số tiền 5.000.000 đồng, H Mri Byă chiếm đoạt số tiền 9.000.000 đồng, H6 chiếm đoạt số tiền 5.000.000 đồng.

5. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Đông Huệ do bà Võ Thị Huệ, sinh năm 1987, trú tại thôn 8, xã Hòa Thuận, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk, làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Trưa ngày 21/12/2018, tại nhà của gia đình H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H31 đã bàn bạc với H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn, sinh năm 1988, trú tai Buôn Huk A, xã C2, tỉnh Đắk Lắk (là đối tượng đi cùng với H35, hiện đã bỏ đi khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa triệu tập được để làm việc) lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 là người gọi gia chánh, H31 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con trai của H31 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H31 chia cho bị cáo H35 và thuê đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền), còn mình lấy 18.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 16 giờ, ngày 23/12/2018, tại nhà của gia đình bị cáo H13 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H31 đã đứng ra tổ chức cho H13, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 là người gọi gia chánh đồng thời đứng ra thay mặt H13 giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H13 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H35 chia cho H31 số tiền 3.000.000 đồng, H13 (Amĭ Ngắt) số tiền 1.000.000 đồng còn H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lấy số tiền 16.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền).

Vụ thứ ba: Khoảng 8 giờ ngày 24/12/2018 tại nhà của gia đình H22 ở buôn T, xã Ea H Đing, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho H22, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 là người gọi gia chánh, H22 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H22 để lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H22 chia cho H1 3.000.000 đồng, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền), còn mình lấy 15.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ ngày 24/12/2018, tại nhà của gia đình H Mri Byă ở buôn Cuôr, xã Ea Mdroh, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đứng ra tổ chức cho H Mri Byă, H6, H31, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 là người gọi gia chánh H Mri Byă đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái của H Mri Byă để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H Mri Byă chia cho H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng ( H35 là người cầm tiền), H1 2.000.000 đồng, H6 và H31 mỗi người 2.000.000 đồng còn H Mri Byă lấy 12.000.000 đồng.

Vụ thứ Năm: Khoảng 10 giờ ngày 24/12/2018, tại nhà của gia đình H19 ở Buôn J, xã E8, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đã phối hợp với H19 lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó bị cáo H35 là người gọi gia chánh, H19 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con trai của H19 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H19 chưa chia cho H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn số tiền 1.000.000 đồng như lúc thỏa thuận. Số tiền trên H19 đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ Sáu: Khoảng 9 giờ ngày 29/12/2018, tại nhà của gia đình H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho H4 và Y1 (chồng của H4), H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 là người gọi gia chánh H4 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của H4 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H4 chia cho H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng (H35 là người cầm tiền), H1 8.000.000 đồng còn vợ chồng H4 lấy 10.000.000 đồng.

Vụ thứ bảy: Từ 8 giờ đến khoảng 15 giờ ngày 31/12/2018, tại nhà của gia đình H39 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk và tại nhà của bà Võ Thị Huệ tại thôn 8, xã Hòa Thuận, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H39 đã phối hợp cùng H35, đối tượng Y Đức Ayŭn và H Niêng Êñuôl để lừa bà Võ Thị Huệ lấy tiền. Trong đó H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi gia chánh, H39 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H39 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H39 chia cho H Niêng Êñuôl số tiền 5.000.000 đồng, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn số tiền 1.500.000 đồng còn mình lấy số tiền 13.500.000 đồng. Số tiền trên H39, H Niêng Êñuôl, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tám: Buổi trưa ngày 02/01/2019, tại nhà của gia đình H18 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đứng ra tổ chức cho H18 và Y1 (anh rễ của H18) lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi gia chánh, Y1 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của Y1 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền Y1 đã chia lại cho H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng, H18 15.000.000 đồng còn Y Pem lấy 3.000.000 đồng.

Vụ thứ chín: Khoảng 14 giờ ngày 03/01/2019, tại nhà của gia đình H23 ở buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho H23, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi gia chánh, H23 đứng giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H23 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền H23 đã chia cho H1 8.000.000 đồng, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng (H Yãn Kbruôr là người cầm tiền), còn H23 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo và đối tượng Y Đức Ayŭn đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười: Buổi chiều ngày 03/01/2019, tại nhà của gia đình H30 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho H28, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền. Trong đó H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi gia chánh, H28 lấy tên giả là H30 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H30 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.0000 đồng. Sau khi lấy được tiền H28 chia cho H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng, H1 3.000.000 đồng còn H28 lấy 15.000.000 đồng.

Vụ thứ mười một: Buổi trưa ngày 07/01/2019, tại nhà của gia đình H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho H35, H9 và đối tượng H Sươn Bdap, trú tại buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk (hiện đối tượng đã bỏ đi khỏi địa phương Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa triệu tập được để làm việc) lừa bà Võ Thị Huệ để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó H35 là người gọi gia chánh, H9 và đối tượng H Sươn Bdap là người đứng ra giả ký hợp đồng. Sau khi bàn bạc thống nhất xong. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày H35 gọi bà Võ Thị Huệ đến nhà H9. Tại đây như đã bàn bạc từ trước H9 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của bị cáo H9 để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H9 chia cho H1 7.500.000 đồng còn H9 lấy số tiền 7.500.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười hai: Lúc 16 giờ 30 phút giờ ngày 07/01/2019, tại nhà của gia đình H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi bị cáo H9 giả ký hợp đồng và lấy tiền của và Võ Thị Huệ xong thì đối tượng H Sươn Bdap tiếp tục giả ký hợp đồng đặt tiệc sinh nhật cho con của H Sươn Bdap để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền đối tượng H Sươn Bdap chia cho bị cáo H35 1.000.000 đồng còn đối tượng H Sươn Bdap lấy 9.000.000 đồng, không chia tiền cho bị cáo H1 và bị cáo H9.

Vụ thứ mười ba: Sáng ngày 24/01/2019, tại nhà của gia đình H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H9 đã đứng ra tổ chức cho đối tượng có tên H Tiên Byă (chưa rõ nhân thân lai lịch) và đối tượng có tên H On (chưa rõ nhân thân lai lịch) để lừa bà Võ Thị Huệ lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H9 là người gọi gia chánh còn đối tượng H Tiên Byă và H On là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc để lấy tiền. Bàn bạc thống nhất xong bị cáo H9 đã gọi điện thoại cho bà Võ Thị Huệ đến nhà của gia đình bị cáo H9. Tại đây như đã bàn bạc từ trước đối tượng H Tiên Byă đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của H Tiên Byă để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền đối tượng H Tiên Byă, không chia cho ai.

Vụ thứ mười bốn: Sáng ngày 24/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi đối tượng H Tiên Byă giả ký hợp đồng lấy lừa lấy tiền xong. Đối tượng H On tiếp tục giả ký hợp đồng đặt tiệc làm đám cưới cho chính đối tượng H On để lừa lấy của bà Võ Thị Huệ số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền đối tượng H On chia số tiền lấy được cho bị cáo H9 10.000.000 đồng, còn đối tượng H On lấy 5.000.000 đồng.

Như vậy H1 cùng các bị cáo đã chiếm đoạt của bà Huệ với tổng số tiền 255.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi lăm triệu đồng). Trong đó bị cáo H Môi Ayũn chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H13, chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H22 chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H Mri Byă chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H19 chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H4 chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, Y1 chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H7 chiếm đoạt 20.000.000 đồn, H Leo Ê Nuôl chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Ngoãi Bkrông chiếm đoạt 15.000.000 đồng và đối tượng H Tiên Byã chiếm đoạt 25.000.000 đồng, H On chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H Sươn Bdap chiếm đoạt 10.000.000 đồng.

6. Chiếm đoạt tài sản của Gia Chánh TV do bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1974, trú tại số nhà 243, thôn T1, xã Q, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 01/01/2019 tại nhà của gia đình H24 ở buôn YB, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H30 đã tổ chức cho bị cáo H24 và đối tượng có tên Amĭ Lát lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H30 là người gọi gia chánh đến nhà ông Y Sáu Niê Kdăm (bố của bị cáo H24, gần nhà của H24) để bị cáo H24 đứng ra bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H24 chia cho bị cáo H30 và đối tượng Amĭ Lát 2.000.000 đồng (đối tượng Amĭ Lát là người cầm tiền và chia lại cho bị cáo H30 500.000 đồng), còn bị cáo H24 lấy 18.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Chiều ngày 06/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H31 một mình giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H31 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lừa lấy được tiền bị cáo H31 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 14 giờ ngày 07/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H6 ở buôn E6, phường K2, B1, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H31 đứng ra tổ chức cho bị cáo H6, bị cáo H30, bị cáo H28 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H30 và bị cáo H28 là người gọi gia chánh, bị cáo H6 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái của bị cáo H6 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H6 đã chia cho bị cáo H28 2.000.000 đồng, còn bị cáo H6 lấy 18.000.000 đồng, không chia tiền cho bị cáo H30 và bị cáo H31. Số tiền trên bị cáo H6 và bị cáo H28 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: Khoảng 17 giờ ngày 07/01/2019, sau khi bị cáo H6 lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị V xong, bị cáo H30 tiếp tục dẫn bà Nguyễn Thị V đến nhà của gia đình bị cáo H30 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk để một mình đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H30 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Số tiền lừa lấy được bị cáo H30 đã tiêu xài cá nhân Vụ thứ năm: Lúc 10 giờ ngày 08/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H9, bị cáo H6, bị cáo H31 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi gia chánh, bị cáo H9 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H9 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H9 chia cho bị cáo H1 7.000.000 đồng, bị cáo H31 và bị cáo H6 mỗi người 1.500.000 đồng còn bị cáo H9 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền trên bị cáo H9, bị cáo H1, bị cáo H6, bị cáo H31 đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ sáu: Vào khoảng 16 giờ ngày 08/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H13 ở buôn YA, xã E1, huyện CưM’gar. Bị cáo H31 đã phối hợp cùng bị cáo H13 là em gái của bị cáo H31, để lừa bà Nguyễn Thị V lấy tiền cho bị cáo H31. Trong đó bị cáo H31 là người gọi gia chánh đến và bị cáo H13 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H13 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền chờ cho bà Nguyễn Thị V đi về bị cáo H13 đưa toàn bộ tiền vừa lấy được cho bị cáo H31. Số tiền trên bị cáo H31 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ bảy: Khoảng 10 giờ ngày 11/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H Niêng Êñuôl ở buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã gọi bà Nguyễn Thị V đến để cho bị cáo H Niêng Êñuôl đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H Niêng Êñuôl lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 30.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền chờ cho bà Nguyễn Thị V đi ra ngoài bị cáo H Niêng Êñuôl chia cho bị cáo H1 10.000.000 đồng, bản thân bị cáo H Niêng Êñuôl lấy 20.000.000 đồng. Số tiền trên bị cáo H1 và bị cáo H Niêng Êñuôl đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tám: Lúc 11 giờ ngày 11/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H4 và bị cáo Y1 để lừa bà Nguyễn Thị V lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi gia chánh, bị cáo H4 và bị cáo Y1 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H4 và Y1 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 30.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H4 và bị cáo Y1 chia cho bị cáo H1 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ chín: Khoảng 15 giờ ngày 11/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H16 ở Buôn HO, xã E1, huyện CưM'gar, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H16 một mình giả ký hợp đồng đặt tiệc sinh nhật cho con của bị cáo H16 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H16 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười: Khoảng 19 giờ ngày 11/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H15 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H15 đã một mình gọi bà Nguyễn Thị V đến để giả ký hợp đồng đặt tiệc sinh nhật cho con của bị cáo H15 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Số tiền lừa lấy được bị cáo H15 đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười một: Lúc 9 giờ ngày 12/01/2019, tại Quán Cà Phê Thảo Nguyên, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H12 đã cùng đối tượng có tên Amĭ Lát gọi bà Nguyễn Thị V đến để bị cáo H12 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc sinh nhật cho con của bị cáo H12 và lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng để chia nhau tiêu xài. Sau khi lấy được tiền bị cáo H12 chia cho đối tượng có tên Amĭ Lát 10.000.000 đồng còn bị cáo H12 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền trên bị cáo H12 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười hai: Khoảng 10 giờ ngày 14/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H Nhǔi Mlô ở buôn Ea Sang, Ea Hđing, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng với bị cáo H Nhǔi Mlô lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi gia chánh đến để bị cáo H Nhǔi Mlô đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc mừng thọ cho bố của bị cáo H Nhǔi Mlô để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H Nhǔi Mlô chia cho bị cáo H1 5.000.000 đồng còn bị cáo H Nhǔi Mlô lấy 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười ba: Khoảng 14 giờ ngày 14/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H32 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H32 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi bà Nguyễn Thị V đến để bị cáo H32 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc sinh nhật cho con của bị cáo H32 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H32 chia cho bị cáo H1 5.000.000 đồng, còn bị cáo H32 lấy 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười bốn: Lúc 15 giờ ngày 14/01/2019, bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H30 và H28 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 là người gọi gia chánh và đưa đón gia chánh đến nhà em gái của bị cáo H28 ở buôn Riêng A, xã Ea Knuếc, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H28 lấy tên giả là H Lương đứng ra để giả làm hợp đồng nhận đặt tiệc cưới cho con để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Do lúc này bà Nguyễn Thị V chỉ cầm theo 7.000.000 đồng nên mới đưa cho cho bị cáo H28 7.000.000. Sau khi lấy được tiền bị cáo H28 chia số tiền lấy đươc cho bị cáo H1 2.000.000 đồng, bị cáo H30 1.000.000 đồng còn lại H11 lấy số tiền 4.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười lăm: Khoảng 10 giờ ngày 15/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H42 ở buôn Kõ Êmông, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H4 cùng với bị cáo H42 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H4 là người gọi và dẫn bà Nguyễn Thị V đến để bị cáo H42 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc mừng sinh nhật cho con của bị cáo H42 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H42 chia cho bị cáo H4 7.500.000 đồng còn H42 lấy 7.500.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười sáu: Khoảng 11 giờ ngày 15/01/2019, Sau khi bị cáo H42 lừa lấy tiền xong, bị cáo H4 tiếp tục dẫn bà Nguyễn Thị V đến nhà của gia đình bị cáo H21 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk để cho bị cáo H21 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con của bị cáo H21 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H21 chia cho bị cáo H4 2.000.000 đồng còn mình lấy 13.000 triệu đồng. Số tiền trên bị cáo H4 và bị cáo H21 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười bảy: Lúc 14 giờ ngày 15/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H44 ở buôn Kõ Êmông A, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H44, bị cáo H4 và bị cáo Y1 để tiếp tục lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị V. Trong đó bị cáo H4 và bị cáo Y1 là người dẫn bà Nguyễn Thị V đến, bị cáo H44 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con của bị cáo H44 để lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 25.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H44 chia cho bị cáo H4 và bị cáo Y1 10.000.000 đồng (bị cáo H4 là người cầm tiền), bị cáo H1 2.500.000 đồng, còn bị cáo H44 lấy 12.500.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười tám: Khoảng 10 giờ ngày 19/01/2019, tại nhà của bị cáo H39 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H4 và bị cáo Y1 cùng với bị cáo H39 lừa bà Nguyễn Thị V để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H4 và Y1 là người gọi bà Nguyễn Thị V đến để bị cáo H39 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con của bị cáo H39 lừa lấy của bà Nguyễn Thị V số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H39 chia cho bị cáo H4 và bị cáo Y1 5.000.000 đồng (bị cáo H4 là người cầm tiền) còn bị cáo H39 lấy 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của bà V tổng số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng). Trong đó bị cáo H Mang Ê ban chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H Môi Ayũn chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H6 20.000.000 đồng, H Brih A Yũn chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H9 chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H13 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H8 chiếm đoạt số tiền 30.000.000 đồng, H4 chiếm đoạt 30.000.000 đồng, H15 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H12 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H33 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H14 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H42 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H21 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H44 chiếm đoạt 25.000.000 đồng, H39 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H29 chiếm đoạt 15.000.000 đồng.

7. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Yến khải do ông Trần Quang Khải, sinh năm 1970, trú tại thôn 2, xã Hòa Thuận, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 8 giờ ngày 05/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H6 ở buôn Ê Rang, phường K2, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H6 cùng bị cáo H31, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa ông Trần Quang Khải để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H35 và đối tượng Y Đức là người gọi ông Trần Quang Khải đến để bị cáo H6 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con của bị cáo H6 lừa lấy của ông Trần Quang Khải số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H6 chia cho bị cáo H1 3.000.000 đồng, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 2.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền), bị cáo H31 5.000.000 đồng còn bị cáo H6 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo và đối tượng Y Đức Ayŭn đã tiêu xái cá nhân.

Vụ thứ hai: Lúc 10 giờ ngày 05/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H41 ở buôn Yẽ, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H41 cùng với bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi, dẫn ông Trần Quang Khải đến để bị cáo H41 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con của em gái bị cáo H41 lừa lấy của ông Trần Quang Khải số tiền 30.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H41 chia cho bị cáo H1 2.000.000 đồng, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 3.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền) còn bị cáo H41 lấy 25.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo và đối tượng Y Đức Ayŭn đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 8 giờ ngày 06/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H Nhǔi Mlô ở buôn Ea Sang, xã Ea H'Đing, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H Nhǔi Mlô cùng bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa ông Trần Quang Khải để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 là người gọi và cùng bị cáo H35, đối tượng Y Đức Ayŭn dẫn ông Trần Quang Khải đến để bị cáo H Nhǔi Mlô đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con trai của bị cáo H Nhǔi Mlô lừa lấy của ông Trần Quang Khải số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H Nhǔi Mlô chia cho bị cáo H1 1.500.000 đồng, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 1.500.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền), còn bị cáo H Nhǔi Mlô lấy 12.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 8 giờ ngày 07/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H16 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H16, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa ông Trần Quang Khải để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 là người gọi ông Trần Quang Khải đến để bị cáo H16 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho em của bị cáo H16 lừa lấy của ông Trần Quang Khải số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H16 chia cho bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 4.000.000 đồng, bị cáo H1 1.000.000 đồng, còn bị cáo H16 lấy 5.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ năm: Khong 9 giờ 30 phút ngày 07/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H36 ở buôn Ea Sang, xã E8, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn cùng với bị cáo H36 lừa gia chánh để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn là người gọi và dẫn ông Trần Quang Khải đến để bị cáo H36 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc lừa lấy của ông Trần Quang Khải số tiền 15.000.000 đồng. Tuy nhiên ông Trần Quang Khải chỉ đồng ý đưa cho bị cáo H36 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H36 chia cho bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn 1.000.000 đồng còn bị cáo H36 lấy 9.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo và đối tượng Y Đức Ayŭn đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của ông Khải tổng số tiền 85.000.000.000 đồng, trong đó bị cáo H6 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H41 chiếm đoạt 30.000.000 đồng, H33 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H16 chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H36 chiếm đoạt 10.000.000 đồng.

8. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Hùng Loan do bà Trần Thị Thu Triều, sinh năm 1976, trú tại số nhà 96 Trần Hưng Đạo, tổ dân phố 12, thị trấn Phước An, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 9 giờ ngày 14/3/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H31 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H30 và bị cáo H6 lừa bà Trần Thị Thu Triều để lấy tiền. Trong đó bị cáo H30 là người gọi và dẫn bà Trần Thị Thu Triều đến để bị cáo H6 lấy tên giả là Amĭ Gor đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc cưới cho con lừa lấy của bà Trần Thị Thu Triều số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H31 nói với mọi người là bị cáo H31 có việc nên đã lấy hết số tiền này để tiêu xài cá nhân và không chia cho bị cáo H30 và bị cáo H6.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 14/3/2019, sau khi bị cáo H6 lừa lấy tiền của bà Trần Thị Thu Triều xong. Bị cáo H1 đứng ra tiếp tục tổ chức để bị cáo H30 cùng bị cáo H6 và bị cáo H31 tiếp tục dẫn gia chánh đến nhà của gia đình bị cáo H22 ở buôn T, xã Ea Hđing, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk, để tiếp tục lừa gia chánh lấy tiền. Bị cáo H22 theo sự sắp đặt của bị cáo H1 đã đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo để H22 lừa lấy của bà Trần Thị Thu Triều số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H22 đã chia cho bị cáo H1 số 3.000.000 đồng còn bị cáo H22 lấy 7.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của bà Triều với tổng số tiền 20.000.000 đồng, trong đó bị cáo H Môi Ayũn chiếm đoạt số tiền 10.000.000 đồng và bị cáo H22 chiếm đoạt số tiền 7.000.000 đồng, H1 chiếm đoạt số tiền 3.000.000 đồng.

9. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Phú Quý do ông Nguyễn Tân Định, sinh năm 1964, trú tại thôn Tân Trung, xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 17/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H13 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H6, bị cáo H31, bị cáo H46 và bị cáo H13 lừa ông Nguyễn Tân Định để lấy tiền. Trong đó bị cáo H46 là người gọi và dẫn ông Nguyễn Tân Định đến, bị cáo H6 lấy tên giả là Amĭ Ngắt đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 15.000.000 triệu đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H6 đã chia cho bị cáo H31 13.000.000 đồng, bị cáo H46 1.000.000 đồng, bị cáo H13 1.000.000 đồng, còn bị cáo H6 không lấy tiền. Số tiền trên các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng hơn 13 giờ ngày 17/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H4, bị cáo Y1, bị cáo H9 và bị cáo H46 lừa ông Nguyễn Tân Định để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H46 là người gọi và dẫn ông Nguyên Tân Định đến, bị cáo H4 và bị cáo Y1 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H4 và Y1 lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 30.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H4 và Y1 đã chia cho bị cáo H1 10.000.000 đồng, bị cáo H46 3.000.000 đồng, bị cáo H4 và bị cáo Y1 lấy 17.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H9. Số tiền trên các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Lúc 13 giờ 30 phút giờ ngày 17/01/2019 cũng tại nhà của gia đình bị cáo H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi bị cáo H4 và bị cáo Y1 lừa ông Nguyễn Tân Định xong. Bị cáo H9 tiếp tục đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H9 lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 26.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H9 chia cho bị cáo H1 10.000.000 đồng còn mình lấy 16.000.000 triệu đồng, không chia cho bị cáo H46 và bị cáo H4, bị cáo Y1. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ ngày 19/01/2019 tại nhà của bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk để H9. Bị cáo H4 đã tổ chức cho bị cáo H46 và đối tượng H Sươn Bdap lừa ông Nguyễn Tân Định để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H46 là người gọi và dẫn ông Nguyễn Tân Định đến để đối tượng H Sươn Bdap đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc mừng thọ cho bố mẹ của đối tượng H Sươn Bdap lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, đối tượng H Sươn Bdap chia cho bị cáo H4 và bị cáo H46 mỗi người 500.000 đồng còn đối tượng H Sươn Bdap lấy 9.000.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 11 giờ ngày 19/01/2019 khi cùng đối tượng H Sươn Bdap lừa lấy tiền xong. Bị cáo H4 tiếp tục tổ chức cho bị cáo Y1, bị cáo H46 và bị cáo H43 lừa ông Nguyễn Tân Định để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo Y1 đóng giả là anh họ của bị cáo H43 để cùng với bị cáo H46 và bị cáo H4 gọi ông Nguyễn Tân Định đến nhà của gia đình bị cáo H43 ở buôn Kõ Êmông A, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk cho bị cáo H43 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H43 lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H43 chia cho bị cáo H46 1.500.000 đồng, bị cáo H4 và bị cáo Y1 500.000 đồng (bị cáo H4 là người cầm tiền) còn bị cáo H43 lấy 13.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ sáu: Khoảng 13 giờ ngày 19/01/2019, sau khi cùng bị cáo H43 lừa lấy tiền xong. Bị cáo H4 cùng với bị cáo Y1 và bị cáo H46 tiếp tục dẫn ông Nguyễn Tân Định đến nhà của bị cáo H39 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk để phối hợp với bị cáo H39 lừa lấy tiền của ông Nguyễn Tân Định chia nhau tiêu xài. Bị cáo H39 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H39 lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 40.000.000 đồng. Nhưng ông Nguyễn Tân Định chỉ đồng ý đưa cho bị cáo H39 số tiền 25.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H39 chia cho bị cáo H46 1.000.000 đồng, bị cáo H4 và bị cáo Y1 5.000.000 đồng (bị cáo H4 là người cầm tiền) còn bị cáo H39 lấy 19.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã dùng để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ bảy: Khoảng 13 giờ 30 ngày 19/01/2019 tại nhà của bị cáo H23 (dì của bị cáo H Niêng Êñuôl) ở buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H Niêng Êñuôl, bị cáo H46 và bị cáo H23 để tiếp tục lừa ông Nguyễn Tân Định lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H46 gọi và dẫn ông Nguyễn Tân Định đến nhà của bị cáo H23 để bị cáo H Niêng Êñuôl đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của bị cáo H Niêng Êñuôl lừa lấy của ông Nguyễn Tân Định số tiền 25.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H Niêng Êñuôl chia cho bị cáo H1 7.500.000 đồng, bị cáo H23 5.000.000 đồng, bị cáo H46 2.500.000 đồng còn bị cáo H Niêng Êñuôl lấy 10.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của ông Định số tiền 121.000.000 đồng (Một trăm hai mốt triệu đồng), trong đó bị cáo H6 chiếm đoạt số tiền 15.000.000 đồng, H4 và Y1 chiếm đoạt 17.000.000 đồng, H9 chiếm đoạt 26.000.000 đồng, Y BLuên Kriêng chiếm đoạt 27.500.000 đồng, H Sươn Bdap chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H43 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H39 chiếm đoạt 25.000.000 đồng, H Niêng Ê Nuôl chiếm đoạt 25.000.000 đồng.

10. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Ngọc Thanh do ông Lê Văn H26, sinh năm 1963, trú tại số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk, làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 7 giờ ngày 29/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H29 ở buôn Yao, xã E5, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H5 đã cùng với bị cáo H29 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H5 là người gọi và dẫn ông Lê Văn Hường đến, bị cáo H29 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H29 đã chia cho bị cáo H5 2.000.000 đồng còn mình lấy 13.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng 9 giờ ngày 29/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H5, bị cáo H6 và bị cáo H31 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H5 là người gọi ông Lê Văn H26 đến, bị cáo H6 đóng giả cô dâu, bị cáo H31 đóng giả mẹ chú rễ. Bị cáo H6 là người đứng ra giả ký hợp đồng để lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H6 đã chia cho bị cáo H1 1.500.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, bị cáo H31 2.000.000 đồng, còn bị cáo H6 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ ngày 29/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H28 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H28 và bị cáo H5 lừa ông Lê Văn H26 lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H5 là người dẫn ông Lê Văn H26 đến, bị cáo H28 lấy tên giả là H Ngơ Ayŭn đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông ông Lê Văn H26 số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 15 giờ cùng ngày bị cáo H28 đã chia cho bị cáo H1 1.500.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, còn bị cáo H28 lấy 12.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: Khoảng 11 giờ ngày 29/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9, nhà ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H9, bị cáo H ĨL Niê Siêng và bị cáo H5 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H5 và bị cáo H1 là người gọi và dẫn ông Lê Văn H26 đến, có sự tham gia của bị cáo H38, bị cáo H9 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 15 giờ cùng ngày, bị cáo H9 đã chia cho bị cáo H1 9.000.000 đồng, bị cáo H Mlen 2.000.000 đồng, còn bị cáo H9 lấy 9.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ năm: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 29/01/2019, cũng tại nhà của bị cáo H9, sau khi sau khi bị cáo H9 giả ký hợp đồng đặt tiệc với ông Lê Văn H26 xong. Bị cáo H38 tiếp tục đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 17.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 15 giờ cùng ngày, bị cáo H38 chia cho bị cáo H1 1.000.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, còn bị cáo H38 14.500.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ sáu: Khoảng 12 giờ ngày 29/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H39, ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiết tục cùng bị cáo H5 tổ chức cho bị cáo H39 lừa ông Lê Văn H26 lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo Bluên Kriêng cùng bị cáo H5 là người dẫn ông Lê Văn H26 đến để cho bị cáo H39 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 15 giờ cùng ngày, bị cáo H39 đã chia cho bị cáo H1 3.000.000 đồng, bị cáo H5 2.000.000 đồng, còn bị cáo H39 lấy 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ bảy: Khoảng 9 giờ ngày 30/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H Mri Byă ở buôn Cuôr, xã Ea Mdroh, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H Mri Byă cùng với bị cáo Hlen Ksơr lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H5 là người gọi và dẫn ông Lê Văn H26 đến để bị cáo H Mri Byă giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 13 giờ cùng ngày, bị cáo H Mri Byă chia cho bị cáo H1 6.000.000 đồng, bị cáo H5 2.000.000 đồng, còn bị cáo H Mri Byă lấy 12.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tám: Lúc khoảng 10 giờ ngày 30/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H45 (dì của bị cáo H Mri Byă) ở buôn Cuôr, xã Ea Mdroh, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H45, bị cáo H5 và bị cáo H Mri Byă lừa ông Lê Văn H26 lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H5 là người dẫn ông Lên Văn H26 đến, có sự tham gia của bị cáo H Mri Byă, bị cáo H45 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 13 giờ cùng ngày, bị cáo H45 đã đưa toàn bộ số tiền 20.000.000 đồng vừa lấy được cho bị cáo H Mri Byă để bị cáo H Mri Byă chia. Bị cáo H Mri Byă chia cho bị cáo H1 2.000.000 đồng, bị cáo H5 2.000.000 đồng, bị cáo H45 1.000.000 đồng, còn bị cáo H Mri Byă lấy 15.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ chín: Khoảng 8 giờ ngày 01/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H21, ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H21 cùng với bị cáo H5 và bị cáo H4 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền. Trong đó bị cáo H5 và H1 là người gọi và dẫn ông Lê Văn H26 đến, có sự tham gia của bị cáo H4, bị cáo H21 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H21 đã chia cho bị cáo H1 4.000.000 triệu đồng, bị cáo H4 4.000.000 đồng, bị cáo H5 2.000.000 đồng, còn bị cáo H21 lấy 10.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười: Khoảng 9 giờ ngày 01/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng bị cáo H5 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H4 cùng chồng là bị cáo Y1 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 17.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 14 giờ cùng ngày, bị cáo H4 và bị cáo Y1 chia cho bị cáo H1 1.700.000 đồng, bị cáo H5 1.700.000 đồng, còn bị cáo H4 và bị cáo Y1 lấy 13.600.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười một: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 01/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 và bị cáo H5 tổ chức cho bị cáo H9 và đối tượng H Tiên Byă lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H5 là người dẫn ông Lê Văn H26 đến, có sự tham gia của bị cáo H9, đối tượng H Tiên Byă đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho gia đình lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 14 giờ cùng ngày, đối tượng H Tiên Byă đã chia cho bị cáo H1 1.500.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, còn đối tượng H Tiên Byă lấy 7.000.000 đồng.

Vụ thứ mười hai: Lúc 10 giờ ngày 01/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi đối tượng H Tiên Byă lừa ký hợp đồng xong, bị cáo H1, H5 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H18 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền. Bị cáo H18 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho gia đình lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 12.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H18 đã chia cho bị cáo H5 4.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H1 còn bị cáo H18 lấy 8.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười ba: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 01/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H37, ở nhà ở Buôn E3, xã E4, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã tiếp tục tổ chức cho bị cáo H37 cùng với bị cáo H5, bị cáo H4 và bị cáo Y1 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền. Trong đó bị cáo H1 cùng với bị cáo H5, bị cáo H4 và bị cáo Y1 là người dẫn ông Lê Văn H26 đến để bị cáo H37 để H37 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho gia đình lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 17.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 14 giờ cùng ngày, bị cáo H37 đã chia cho bị cáo H1 1.000.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, bị cáo H4 và bị cáo Y1 1.000.000 đồng (bị cáo H4 là người cầm tiền), còn bị cáo H37 lấy 13.500.000 đồng. Số tiền trên các bị đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười bốn: Khoảng 10 giờ ngày 02/02/2019, bị cáo H1 cùng với bị cáo Hlen Ksơr dẫn bị cáo đến H Niêng Êñuôl đến nhà của ông Lê Văn H26, ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk, để bị cáo H Niêng Êñuôl đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H Niêng Êñuôl đã chia cho bị cáo H1 3.000.000 đồng, bị cáo H5 2.000.000 đồng còn bị cáo H Niêng Êñuôl lấy 5.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười lăm: Khoảng 7 giờ ngày 08/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H5, bị cáo H31, bị cáo H6 và bị cáo H13 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H5 và H1 là người gọi và dẫn ông Lê Văn H26 đến, với sự tham gia của bị cáo H31, bị cáo H13 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi đến nhà của ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lức 15 giờ cùng ngày, bị cáo H13 đã đưa toàn bộ số tiền 10.000.000 đồng cho H31 cầm, bị cáo H31 chia lại cho bị cáo H13 500.000 đồng, bị cáo H1 1.500.000 triệu đồng, không chia cho bị cáo H6, còn bị cáo H31 lấy 8.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười sáu: Sáng ngày 11/02/2019, chị H Dluôi Niê, sinh năm 1990, trú tại buôn Trắp, xã Ea Hđing, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk đã gọi điện thoại để mượn số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo H5 để đóng viện phí cho con đang nằm viện. Khi nhận điện thoại của chị H Dluôi Niê, bị cáo H5 đã nãy sinh ý định lợi dụng H Dluôi Niê để giả ký hợp đồng đặt tiệc để lừa lấy tiền của ông Lê Văn H26 tiêu xài. Thực hiện ý định của mình bị cáo H5 nói dối với chị H Dluôi Niê là đến nhà ông Lê Văn H26 ở số 29 Đường L1, tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk cùng với bị cáo H5 để ký dùm giấy để bị cáo H5 vay tiền của gia chánh sau đó bị cáo H5 sẽ cho mượn tiền. Bàn bạc xong khoảng 10 giờ cùng ngày chị H Dluôi Niê đi xe máy đón bị cáo H5 đi đến nhà ông Lê Văn H26. Tại đây bị cáo H5 đã đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái của chị H Dluôi Niê lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 5.000.000 đồng. Đồng thời bị cáo H5 đưa chị H Dluôi Niê ký dùm giấy vay tiền của gia chánh. Sau khi lấy được tiền bị cáo H5 đã đưa cho chị H Dluôi Niê 1.000.000 đồng và nói là cho chị H Dluôi Niê và không yêu cầu chị H Dluôi Niê trả lại số tiền này.

Số tiền lấy được của gia chánh 4.000.000 đồng H5 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ Mười Bảy: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H10 ở Buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ cho bị cáo H5, bị cáo H10, H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H5 là người gọi và dẫn ông Lê Văn H26 đến, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đóng giả cô dâu, chú rễ và đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho chính bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đã chia cho bị cáo H1 3.000.000 đồng, bị cáo H5 1.500.000 đồng, bị cáo H Them A Yũn số tiền 3.000.000 đồng còn H35 và Y Đức Ayŭn lấy số tiền 7.500.000 đồng.

Vụ thứ mười tám: Khoảng 13 giờ ngày 13/02/2019, tại nhà của bị cáo H16 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H5 cùng với bị cáo H10 và bị cáo H16 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H5 là người gọi và đưa ông Lê Văn H26 đến để bị cáo H16 lấy tên giả là H Buar đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho chính mình lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H16 đã chia cho bị cáo H1 1.000.000 đồng, bị cáo H5 1.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H10, còn bị cáo H16 lấy 8.000.000 đồng. Số tiền các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười chín: Khoảng 15 giờ ngày 13/02/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H10 ở buôn A, xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục tổ chức cho bị cáo H5 cùng với bị cáo H10 và bị cáo H12 lừa ông Lê Văn H26 để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 cùng bị cáo H5 và bị cáo H10 việc tiếp tục dẫn ông Lê Văn H26 đến để bị cáo H12 lấy tên giả là H Thanh đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho gia đình lừa lấy của ông Lê Văn H26 số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi đến nhà ông Lê Văn H26 ở tổ dân phố 4, thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk lấy được tiền vào lúc 14 giờ ngày 14/2/2019, bị cáo H12 chia cho bị cáo H1 5.000.000 đồng, bị cáo H5 1.300.000 đồng, còn bị cáo H12 lấy 3.700.000 đồng, không chia tiền cho bị cáo H10. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của ông H26 với tổng số tiền 278.000.000 đồng (Hai trăm bảy mươi tám triệu đồng) trong đó bị cáo H29 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H6 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H9 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Ĩi Niê Siêng chiếm đoạt 17.000.000 đồng, H39 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Mri Byã chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H45 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H21 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H4 chiếm đoạt 17.000.000 đồng, H Luin Bkrông chiếm đoạt 12.000.000 đồng, H37 chiếm đoạt 17.000.000 đồng H8 chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H13 chiếm đoạt 10.000.000 dồng, HMlen Ksơr chiếm đoạt 5.000.000 đồng, H Yăn Kbuôr chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H16 chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H Niê chiếm đoạt 10.000.000 đồng.

12. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Hoa Nỡ do bà Cao Thị Hoa, sinh năm 1981, trú tại thôn 1B, xã Hòa An, huyện K, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 9 giờ ngày 27/01/2019 tại nhà của gia đình bị cáo H30 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H10 cùng với bị cáo H28, bị cáo H31, bị cáo H6, bị cáo H Mri Byă, bị cáo Y2 và bị cáo H30 lừa bà Cao Thị Hoa để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H10 là người gọi bà Cao Thị Hoa đến, bị cáo H30 là người cho mượn địa điểm tổ chức, bị cáo H Mri Byă đóng giả cô dâu, bị cáo Y2 đóng giả chú rễ và bị cáo H28 giả đóng mẹ cô dâu và bị cáo H31 và bị cáo H6 tham gia lừa lấy của bà Cao Thị Hoa số tiền 25.000.000 đồng. Sau khi lấy đươc tiền, bị cáo H6 đứng ra chia số tiền lấy được cho bị cáo H1 5.000.000 đồng, bị cáo H10 2.000.000 đồng, bị cáo H28 2.500.000 đồng, bị cáo H31 2.500.000 đồng, bị cáo H Mri Byă 8.000.000 đồng, bị cáo Y2 2.000.000 đồng, bị cáo H6 lấy 3.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H30. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 27/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xa E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 và bị cáo H10 tiếp tục đứng ra tổ chức cho bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đóng giả cô dâu chú rễ, bị cáo H31 đóng giả mẹ cô dâu để lừa bà Cao Thị Hoa lấy tiền chia nhau tiêu xài. Bị cáo H35 là người đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc để lừa lấy của bà Cao Thị Hoa số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H35 đã chia cho bị cáo H1 2.000.000 triệu đồng, bị cáo H10 2.000.000 đồng, bị cáo H31 3.000.000 đồng, còn bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lấy 13.000.000 đồng (bị cáo H35 là người cầm tiền). Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 13 giờ ngày 27/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 tiếp tục cùng bị cáo H10 dẫn bà Cao Thị Hoa đến để bị cáo H9 cùng với đối tượng H Tiên Byă đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới con của bị cáo H9 lừa lấy của bà Cao Thị Hoa số tiền 25.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H9 đã chia cho bị cáo H1 5.000.000 đồng, đối tượng H Tiên Byă 15.000.000 đồng, bị cáo H9 lấy 5.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H10.

Vụ thứ tư: Khoảng 15 giờ ngày 27/01/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 và bị cáo H10 tiếp tục đứng ra tổ chức cho bị cáo H31 đóng giả mẹ chú rễ và bị cáo H6 đóng giả cô dâu để lừa lấy tiền của bà Cao Thị Hoa chia nhau tiêu xài. Bị cáo H6 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới để lừa lấy của bà Cao Thị Hoa số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H6 đã chia cho bị cáo H1 2.000.000 đồng, bị cáo H10 1.500.000 đồng, không chia cho bị cáo H31, còn bị cáo H6 lấy 16.500.000 đồng. Số tiền các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của bà Hoa tổng số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng) trong đó bị cáo H Yăn Kbuôr chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, H9 chiếm đoạt số tiền 25.000.000 đồng, H6 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 25.000.000 đồng.

13. Chiếm đoạt tài sản của Gia chánh Ý Nhi do bà Lê Thị Loan, sinh năm 1968, trú tại thôn 1A, xã Hòa Tiến, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, làm chủ, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 02/03/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H18 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H Niêng Êñuôl đã đứng ra tổ chức cho đối tượng H Tiên Byă cùng với bị cáo H12 và bị cáo H18 để lừa bà Lê Thị Loan lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H12 và bị cáo H Niêng Êñuôl là người gọi và dẫn bà Lê Thị Loan đến, với sự tham gia của bị cáo H18, đối tượng H Tiên Byă đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, đối tượng H Tiên Byă đã chia cho bị cáo H Niêng Êñuôl 3.000.000 đồng, bị cáo H18 3.000.000 triệu đồng, không chia tiền cho bị cáo H12, lấy 9.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 02/03/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H39 cũng ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H Niêng Êñuôl cùng bị cáo H12 dẫn bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H39 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H39 đã chia cho bị cáo H Niêng Êñuôl và bị cáo H12 4.000.000 đồng (bị cáo H Niêng Êñuôl là người cầm tiền), còn bị cáo H39 lấy 16.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 8 giờ ngày 05/03/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H Niêng Êñuôl ở buôn C7, xã E7, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H Niêng Êñuôl đã phối hợp cùng đối tượng có tên Amĭ Ngọt (chưa rõ nhân thân lai lịch) để lừa lấy tiền của bà Lê Thị Loan chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H Niêng Êñuôl là người gọi và dẫn bà Lê Thị Loan đến để cho đối tượng có tên Amĭ Ngọt đứng ra đã giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con của em gái Amĭ Ngot nhằm mục đích lừa để lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, đối tượng Amĭ Ngọt đã chia cho bị cáo H Niêng Êñuôl 9.000.000 đồng còn Amĭ Ngọt lấy 11.000.0000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 10 giờ ngày 05/03/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng bị cáo H12 dẫn bà Lê Thị Loan đến để đối tượng H Sươn Bdap lấy tên giả là H H26 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới con trai lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền đối tượng H Sươn Bdap đã chia cho bị cáo H1 3.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H12, đối tượng H Sươn Bdap lấy 17.000.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 14 giờ ngày 07/03/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H9 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã gọi bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H9 đứng ra ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con nhằm mục đích để lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H9 đã chia cho H1 8.000.000 đồng còn H9 lấy 12.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ sáu: Khoảng 9 giờ ngày 08/3/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H31 ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H31 cùng với bị cáo H6 lừa bà Lê Thị Loan để lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi bà Lê Thị Loan đến, với sự tham gia của bị cáo H6, bị cáo H31 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới con gái để nhằm mục đích lừa lấy của bà bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H31 đã chia cho bị cáo H1 4.000.000 đồng, bị cáo H31 lấy số tiền 16.000.000 đồng, không chia cho bị cáo H6, Số tiền trên bị cáo H31 và bị cáo H1 đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ bảy: Khoảng 10 giờ ngày 08/3/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H30 ở Buôn HO, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã dẫn bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H30 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới con gái nhằm mục đích lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H30 đã chia cho bị cáo H1 3.000.000 triệu đồng còn bị cáo H30 lấy 12.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tám: Khoảng 13 giờ ngày 09/3/2019, tại nhà của Y Benjamin Êban là em trai của H10 ở buôn A, xã C1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã gọi bà Lê Thị Loan đến để H10 lấy tên giả là Amĭ zalinh đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái để lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, H10 đã chia cho H1 3.000.000 triệu đồng còn H10 lấy 7.000.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ chín: Lúc 14 giờ 00 phút giờ ngày 09/3/2019 tại nhà của gia đình H17 ở buôn GramB, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. H1 đã đứng ra tổ chức cho bị cáo H17 cùng bị cáo H10 lừa lấy tiền của bà Lê Thị Loan chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 và bị cáo H10 là người gọi bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H17 lấy tên giả là Amĭ Gieu đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H17 đã chia cho bị cáo H1 1.000.000 đồng, không chia tiền cho bị cáo H10, còn bị cáo H17 lấy số tiền 14.000.000 đồng. Số tiền trên các bi can đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười: Khoảng 13 giờ ngày 11/3/2019, tại nhà của gia đình H4 ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng bị cáo H Niêng Êñuôl gọi và dẫn bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H4 đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H4 đã chia cho bị cáo H1 6.000.000 đồng, bị cáo H Niêng Êñuôl 1.500.000 đồng, còn bị cáo H4 lấy 7.500.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười một: Lúc 14 giờ 00 phút giờ ngày 11/3/2019, tại nhà của bà H Nguăt Niê Kdăm (mẹ của bị cáo H39) ở buôn E3, xã E4, huyện C3, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H Kêk Niê cùng với bị cáo H Niêng Êñuôl để lừa bà Lê Thị Loan lấy tiền chia nhau tiêu xài. Bị cáo H39 đã giả đứng ra thay bà H Nguăt Niê Kdăm bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H39 đã chia cho bị cáo H Niêng Êñuôl 3.000.000 đồng, còn bị cáo H39 lấy số tiền 7.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười hai: Khoảng 7 giờ ngày 12/3/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H13 (Amĭ Ngắt) ở buôn YA, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đã gọi bà Lê Thị Loan đến để bị cáo H28 lấy tên giả là Amĭ Ngắt đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, bị cáo H28 và bị cáo H1 chia đôi số tiền, mỗi ngưới lấy 7.500.000 đồng bà Loan.

Vụ thứ mười ba: Khoảng 13 giờ ngày 15/3/2019, tại quán nước mía ven đường tại Km19 Quốc Lộ 26, thuộc địa phận xã E2, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H Niêng Êñuôl đã một mình đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho gia đình lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi lừa lấy được số tiền này, bị cáo H Niêng Êñuôl đã tiêu xài cá nhân, hiện chưa bồi thường cho bà Loan.

Vụ thứ mười bốn: Khoảng 13 giờ ngày 17/3/2019, tại nhà của gia đình bị cáo H1 ở buôn Tál, xã E1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 đứng ra tổ chức cho bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn lừa bà Lê Thị Loan lấy tiền chia nhau tiêu xài. Trong đó bị cáo H1 là người gọi bà Lê Thị Loan đến, Bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn đóng giả cô dâu chú rễ đứng ra đặt tiệc cưới để lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H35 và đối tượng Y Đức Ayŭn chia đôi số tiền với bị cáo H1 mỗi ngưới lấy 5.000.000 đồng. Số tiền trên các bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ mười lăm: Chiều ngày 17/3/2019, tại nhà của chị H Đǔnh Ayŭn là em gái của bị cáo H19 ở buôn Kuăng, xã Cư Bao, thị xã Buôn HO, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng bị cáo H17 gọi và dẫn và Lê Thị Loan đến để bị cáo H19 lấy tên giả là Amĭ Noar đứng ra giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho con gái lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền bị cáo H19 đưa toàn bộ số tiền vừa lấy được cho bị cáo H17 cầm, bị cáo H17 đã chia cho bị cáo H1 1.000.000 đồng, bị cáo H19 500.000 đồng, còn bị cáo H17 lấy 8.500.000 đồng. Số tiền này các bị cáo đã dùng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ mười sáu: Khoảng 10 giờ ngày 26/3/2019, tại quán cà phê ở thị trấn Q1, huyện C2, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo H1 cùng bị cáo H17 và bị cáo H19 tiếp tục thực hiện hành vi lừa bà Lê Thị Loan để lấy tiền. Bị cáo H19 lấy tên giả là Amĭ Noar cùng bị cáo H1 giả đứng ra thay H Djut Ayŭn (con gái của bị cáo H19) bàn bạc giả ký hợp đồng đặt tiệc đám cưới cho em gái chồng của H Djut Ayŭn để lừa lấy của bà Lê Thị Loan số tiền 20.000.0000 đồng. Khi bị cáo H1, bị cáo H17 và bị cáo H19 đang thực hiện hành vi lừa đảo thì bị Công an huyện CưM’gar phát hiện và triệu tập H1, H17, H19, H Djut Ayŭn và bà Lê Thị Loan về trụ sở Công an huyện C2 để điều tra xử lý.

Như vậy các bị cáo đã chiếm đoạt của bà Loan tổng số tiền 260.000.000 đồng ( Hai trăm sáu mươi triệu đồng) trong đó bị cáo H9 chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Môi Ayũn chiếm đoạt 40.000.000 đồng, H7 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H10 chiếm đoạt 10.000.000 đồng, H17 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H4 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H39 chiếm đoạt 30.000.000 đồng, H11 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H8 chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H Yăn Kbuôr chiếm đoạt 15.000.000 đồng, H19 chiếm đoạt 30.000.000 đồng và đối tượng A Mĩ Ngot chiếm đoạt 20.000.000 đồng, H Tiêm Byă chiếm đoạt 20.000.000 đồng.

Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS – ST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc đã quyết định

[I] Tuyên bố: Các bị cáo H1, H6, H5, H7, H2, H4, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl và H3, H11, H14, H Nương A Yũn, H12, H10, H16, H19, H17, H24, H15, , H Leo Ê Nuôl, H20, H22, H18, H38, H21, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1/ Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H1 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 19/02/2020.

2/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H Môi Ayũn 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/4/2020.

3/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H3 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H4 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

5/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H5 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 07/10/2019.

6/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H6 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 24/8/2019.

7/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Y1 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

8/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H7 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

9/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H8 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

10/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H9 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

11/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H10 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

12/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H11 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 24/8/2019.

13/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H12 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

14/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H13 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

15/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H14 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

16/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H15 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

17/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H16 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

18/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H17 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

19/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H18 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

20/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H19 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

21/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H20 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

22/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H21 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 26/3/2020 đến ngày 22/8/2020.

23/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H22 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

24/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H23 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

25/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H24 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 04/9/2020.

26/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H38 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bản án còn quyết định xử phạt 15 đồng phạm khác, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định các bị cáo:

H1, H6, H5, H3, H14, H19, H17. Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

c bị cáo: H7, H2, H4, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl, H11, H Nương A Yũn, H12, H10, H16, H24, H15, H Leo Ê Nuôl, H20, H22, H18, H38, H21. Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

* Bị hại: Ông Lê Văn H26 kháng cáo đề nghị cho H38 được hưởng án treo.

* Bà: Nguyễn Thị V kháng cáo xin bãi nại và giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo cho: H2, H Nương A Yũn, H24.

Tại phiên tòa: Các bị cáo có mặt và người bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo như trên. Bị cáo H24 và bị hại Nguyễn Thị V xin rút đơn kháng cáo đối với bị cáo H24 vì bị cáo đã chấp hành xong hình phạt theo bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo và của bị hại.Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với nội dung đã rút kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo H1, H6, H5, H3, H14, H17, H7, H11, H Nương A Yũn, H16, H20 vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa, còn các bị cáo: H18, H38, H21, H Leo Ê Nuôl, H10, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl, H10, vắng mặt. Xét thấy trong vụ án này các bị cáo đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo,các bị cáo được triệu tập hợp lệ theo đúng địa chỉ của các bị cáo mà bị cáo đã khai báo với cơ quan tiến hành tố tụng khi cần được thông báo, xét thấy việc vắng mặt và lý do xin hoãn phiên tòa của các bị cáo là không chính đáng, đồng thời việc vắng mặt của các bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử; do vậy Hội đồng xét xử sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng vẫn tiếp tục đưa vụ án ra xét xử, theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo H24 và đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị V đối với bị cáo H24.

Về nội dung vụ án:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]: Do ý thức coi thường pháp luật và động cơ tư lợi cá nhân, nên trong khoảng thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019, các bị cáo cùng một số đối tượng khác đã có hành vi bàn bạc, cấu kết với nhau tổ chức thành từng nhóm, phân công vai trò cho từng bi cáo như: Đối tượng tìm gia chánh, gọi điện thoại, đối tượng đóng giả người có nhu cầu đặt tiệc (đám cưới, sinh nhật, mừng thọ...), đối tượng đóng giả cô dâu, chú rể, đối tượng đóng giả chủ nhà nhằm mục đích tạo ra thông tin gian dối để các gia chánh tin tưởng đó là thật để ký hợp đồng đặt tiệc và cho ứng, mượn trước tiền để chuẩn bị đám, tiệc. Sau khi lấy được tiền mà gia chánh cho ứng mượn thì các bị cáo không đặt tiệc như đã thỏa thuận mà chiếm đoạt rồi chia nhau tiêu xài. Các bị cáo đã thực hiện 101 vụ lừa đảo chiếm đoạt được tổng số tiền 1.692.500.000 đồng (Một tỷ sáu trăm chín mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng) và 01 chỉ vàng (không xác định được loại vàng cũng như giá trị cụ thể vì không thu hồi được) của 13 gia chánh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, riêng bị cáo H40 thực hành vi phạm tội độc lập.

Với hành vi và hậu quả nêu trên; Bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ đúng pháp luật. Trong đó:bị cáo H1 bị xét xử theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo: H6, H5, H7, H2, H Yãn Kbuôr, H4, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl và H3 bị xét xử theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo: H11, H14, H Nương A Yũn, H12, H39, H10, xét xử theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo: H16, H19, H17, H29, H24, H15, H33, H Leo Ê Nuôl, H20, H36, Y2, H22, Y3, H18, H37, H38, H21, H41, H42, Y4, H43, H45 và H44, bị xét xử theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Bị cáo H40, bi xét xử theo theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có cơ sở

[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của các bị cáo cũng như của bị hại; Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong vụ án này có 41 bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội, vai trò, hành vi của mỗi bị cáo trong vụ án là khác nhau cụ thể:

1. Bị cáo H1 là người chủ mưu, bàn bạc, cấu kết với các bị cáo khác làm thành từng nhóm, phân công vai trò từng người để lừa đảo ký hợp đồng với các gia chánh. Bị cáo đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 59 vụ đối với 11 gia chánh, tổng số tiền tham gia chiếm đoạt là 1.045.000.000 đồng, bản thân H1 đã chiếm đoạt để tiêu xài 237.200.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt. Nên cần phải áp dụng mức hình phạt cao nhất trong vụ án.

2. Bị cáo H Môi Ayũn đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 19 vụ đối với 10 gia chánh, trong đó 05 vụ do bị cáo H Môi tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 330.000.000 đồng, bản thân H Môi Ayũn đã chiếm đoạt để tiêu xài 131.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

3. Bị cáo H4 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 16 vụ đối với 06 gia chánh, trong đó 06 vụ do bị cáo H4 tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 320.000.000 đồng, bản thân H4 đã chiếm đoạt 106.600.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

4. Bị cáo H3 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 18 vụ đối với 02 gia chánh, trong đó 10 vụ do bị cáo H Gái tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 288.000.000 đồng và 01 chỉ vàng trị giá 3.000.000 đồng, bản thân H Gái Ayǔn đã chiếm đoạt để tiêu xài 26.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

5. Bị cáo H5 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 19 vụ đối với 01 gia chánh, trong đó 01 vụ do bị cáo H Mlen tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 278.000.000 đồng, bản thân H5 đã chiếm đoạt để tiêu xài 36.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

6. Bị cáo H6 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 16 vụ đối với 11 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 274.000.000 đồng, bản thân H6 chiếm đoạt để tiêu xài 75.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

7. Bị cáo Y Pem Byã đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 12 vụ đối với 04 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 255.000.000 đồng, bản thân Y1 đã chiếm đoạt để tiêu xài 80.600.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

8. Bị cáo H7 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 14 vụ đối với 06 gia chánh, trong đó 02 vụ do bị cáo H Brih tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 234.000.000 đồng, bản thân H30 đã chiếm đoạt để tiêu xài 55.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

9. Bị cáo H Niêng ÊÑuôl đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 13 vụ đối với 06 gia chánh, trong đó 05 vụ do bị cáo H Niêng tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 230.000.000 đồng, bản thân H Niêng Êñuôl đã chiếm đoạt để tiêu xài 80.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

10. Bị cáo H9 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 12 vụ đối với 06 gia chánh, trong đó 02 vụ do bị cáo H Ngoăi tổ chức cầm đầu, số tiền tham gia chiếm đoạt là 228.000.000 đồng, bản thân H9 đã chiếm đoạt để tiêu xài 69.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

11. Bị cáo H10 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 09 vụ lừa đối với 03 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 150.000.000 đồng, bản thân H10 đã chiếm đoạt để tiêu xài 15.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

12. Bị cáo H11 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 09 vụ đối với 06 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 107.000.000 đồng, bản thân H28 đã chiếm đoạt để tiêu xài 47.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

13. Bị cáo H12 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 05 vụ đối với 03 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 85.000.000 đồng, bản thân H12 đã chiếm đoạt để tiêu xài 13.700.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

14. Bị cáo H13 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 04 vụ đối với 04 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 60.000.000 đồng, bản thân H13 đã chiếm đoạt để tiêu xài 2.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

15. Bị cáo H14 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 03 vụ lừa đối với 03 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 52.000.000 đồng, bản thân H32 đã chiếm đoạt để tiêu xài 35.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

16. Bị cáo H18 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 03 vụ đối với 03 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 47.000.000 đồng, bản thân H18 đã chiếm đoạt để tiêu xài 26.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

17. Bị cáo H16 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 04 vụ đối với 04 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 47.000.000 đồng và 01 chỉ vàng trị giá 3.000.000 đồng, bản thân H16 đã chiếm đoạt để tiêu xài 40.000.000 đồng và 01 chỉ vàng (không xác định được giá trị) trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

18. Bị cáo H17 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 03 vụ đối với 01 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt để tiêu xài là 45.000.000 đồng, bản thân H17 đã chiếm đoạt sử dụng 22.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

19. Bị cáo H23 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 02 vụ lừa đối với 02 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 45.000.000 đồng, bản thân H23 đã chiếm đoạt để tiêu xài lấy 15.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

20. Bị cáo H19 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 03 vụ đối với 02 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 40.000.000 đồng, bản thân H19 đã chiếm đoạt để tiêu xài 10.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

21. Bị cáo H38 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 02 vụ đối với 01 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 37.000.000 đồng, bản thân H38 đã chiếm đoạt để tiêu xài 14.500.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

22. Bị cáo H21 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 02 vụ đối với 02 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 35.000.000 đồng, bản thân H21 đã chiếm đoạt để tiêu xài 23.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

23. Bị cáo H15 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 04 vụ đối với 02 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 30.000.000 đồng, bản thân H15 chiếm đoạt để tiêu xài 20.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

24. Bị cáo H22 đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 02 vụ đối với 02 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 30.000.000 đồng, bản thân H22 đã chiếm đoạt để tiêu xài 22.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

25. Bị cáo H DLuin Niê đã tham gia cùng đồng bọn thực hiện 03 vụ đối với 01 gia chánh, số tiền tham gia chiếm đoạt là 15.000.000 đồng, bản thân H Dluin Niê đã chiếm đoạt để tiêu xài 6.000.000 đồng trên tổng số tiền tham gia chiếm đoạt.

Xét thấy: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội vai trò của từng bị cáo, đồng thời áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo để xét xử các bị cáo như mức án sơ thẩm là đã xem xét chiếu cố, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo,trong vụ án này có 41 bị cáo trong đó 15 bị cáo được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, các bị cáo còn lại không đủ điều kiện cho hưởng án treo.

Tại cấp phúc thẩm hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ nào mới cần được xem xét áp dụng; do vậy đơn kháng cáo của các bị cáo, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo, cũng như đơn kháng cáo của bị hại là không có căn cứ được chấp nhận.

Về án phí: Các bị cáo là người nghèo, dân tộc thiểu số nên được miễn án phí phúc thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, 348 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo H24, và nội dung đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị V đối với bị cáo H24.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo: H1, H6, H5, H7, H2, H4, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl và H3, H11, H14, H Nương A Yũn, H12, H10, H16, H19, H17, H15, , H Leo Ê Nuôl, H20, H22, H18, H38, H21, và đơn kháng cáo của ông Lê Văn H26, bà Nguyễn Thị V.

Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS – ST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

[I] Tuyên bố: Các bị cáo H1, H6, H5, H7, H2, H4, H9, Y1, H Niêng Ê Nuôl và H3, H11, H14, H Nương A Yũn, H12, H10, H16, H19, H17, H15, , H Leo Ê Nuôl, H20, H22, H18, H38, H21, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1/ Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H1 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 19/02/2020.

2/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H Môi Ayũn 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/4/2020.

3/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H3 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H4 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

5/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H5 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 07/10/2019.

6/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H6 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 24/8/2019.

7/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Y1 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

8/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H7 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

9/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H8 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

10/ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H9 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

11/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H10 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

12/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H11 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2019 đến ngày 24/8/2019.

13/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H12 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

14/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H13 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

15/ Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H14 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2020 đến ngày 21/8/2020.

16/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H15 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

17/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H16 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

18/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H17 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

19/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H18 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

20/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H19 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

21/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H20 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

22/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H21 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2020 đến ngày 22/8/2020.

23/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H22 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

24/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H23 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

25/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo H38 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[II] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự phúc thẩm cho các bị cáo.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS-ST ngày 01/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

726
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 370/2021/HS-PT

Số hiệu:370/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về