Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 274/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 274/2022/HS-PT NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 231/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Đoàn Thị V; Tên gọi khác: Nguyễn Thị Trúc P; S năm 1968 tại Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT: tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; CMND số: 191077516 do CA tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 11/10/2004; Tiền án, tiền sự: Chưa. Con ông Đoàn Văn Đ (chết) và bà Võ Thị D (SN 1932). Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Có chồng Dương M và 04 con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2000. Bị bắt theo lệnh truy nã ngày 24/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng. Có mặt

2. Ngô Thị Cúc H;Tên gọi khác: Không; S ngày 26/02/1971 tại Quảng Nam; Nơi ĐKNKTT: TP Đà Nẵng. Nơi ở trước khi bị bắt: TP Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; CMND số: 201097728 do CATP Đà Nẵng cấp ngày 11/7/2017; Tiền án, tiền sự: Chưa. Con ông Ngô C (chết) và bà Huỳnh Thị T (SN 1932). Gia đình có 7 anh chị em, bị cáo là con thứ 4. Chồng Võ Đức D (Đã ly hôn), có 02 con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2000. Bị bắt tạm giam ngày 26/11/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng. Có mặt - Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thị V: Ông Nguyễn Anh T, Luật sư thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt - Người bào chữa cho bị cáo Ngô Thị Cúc H: Ông Ông Quốc C,Luật sư thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt

* Bị hại:

1. Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L Miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản L (Gọi tắt là Công ty L); Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng nay chuyển về quận N, Tp. Đà Nẵng; Đại diện theo pháp luật: Bà Lê P T, sinh ngày 26/10/1982, chức vụ Tổng giám đốc; Bà T ủy quyền cho bà Lê Thị Hoài T, sinh năm 1993; Trú tại: thành phố Đà Nẵng tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền số 02/GUQ-LSH ngày 24/4/2020. Vắng mặt 2. Ông Hồ T S, sinh năm 1988; Trú tại: thành phố Đà Nẵng. Có mặt

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty cổ phần Đầu tư Khu du lịch –Phim trường V (Gọi tắt là Công ty Phim trường V); Địa chỉ: thành phố Quảng Ngãi. Người đại diện hợp pháp là: Ông Nguyễn Xuân S và ông Đỗ Văn T – nhân viên Công ty; cùng trú tại: TP Hà Nội, theo Văn bản ủy quyền số 14 ngày 11/3/2022. Có mặt 2. Bà Nguyễn Thị L –Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và pháp triển Tân Đông P; Địa chỉ: TP Hồ Chí Minh. Vắng mặt 3. Ông Trần H A – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và công nghiệp T; Địa chỉ: TP. Hồ Chí Minh. Vắng mặt Vắng mặt 4. Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1976; Hộ khẩu thường trú: Tp. Hồ Chí Minh (Nguyên Tổng giám đốc Công ty Phim trường V và T Vắng mặt ổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư tin học và tư vấn xây dựng P Nam).

5. Công ty cổ phần đầu tư X; Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt 6. Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng bất động sản T (Gọi tắt là Công ty T);

Địa chỉ: TP. Đà Nẵng. Vắng mặt 7. Công ty cổ phần Đoàn H (Gọi tắt là Công ty Đoàn H); Địa chỉ Trụ sở chính: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt 8. Bà Trần Thị T T, sinh năm 1982; Hộ khẩu thường trú: tỉnh Quảng Ngãi; Hiện trú tại: tỉnh Quảng Ngãi;(Nguyên kế toán Công ty cổ phần Phim trường V). Vắng mặt 9. Ông Phan Văn S, sinh năm 1981; Hộ khẩu thường trú: TP. Đà Nẵng; Hiện trú tại : thành phố Đà Nẵng. (Nguyên Người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Đoàn H). Vắng mặt 10. Ông Phan Anh T, sinh năm 1966; Trú tại: tỉnh Quảng Ngãi. (Nguyên người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần đầu tư X). Vắng mặt 11. Bà Dương Thị Đoan T, sinh năm 1998; Trú tại: thành phố Hồ Chí Minh. (Con gái bị cáo V, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Đoàn H). Có mặt 12. Ông Dương Thành V, sinh năm 1988; Trú tại: thành phố Hồ Chí Minh. (Nguyên người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng bất động sản T, con của bị cáo V). Vắng mặt 13. Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1963; Trú tại: tỉnh Quảng Nam. Có mặt 14. Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 1967; Trú tại: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt 15. Bà Đoàn Thị S, sinh năm 1971; Hộ khẩu thường trú: thành phố Đà Nẵng;

Nơi cư trú: TP. Đà Nẵng; thành phố Đà Nẵng. Có mặt

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Đoàn Thị S: Ông Nguyễn Lê V – là luật sư thuộc Đoàn luật sư TP. Đà Nẵng. Có mặt 16. Ông Trần Minh K, sinh năm 1989; Trú tại: thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt 17. Bà Phan Thị Lan H, sinh năm 1977; Trú tại: Tp Hồ Chí Minh. Vắng mặt - Người đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị Lan H: Bà Lê Thị Minh N, sinh năm 1962; Trú tại: Tp. Hồ Chí Minh. vắng mặt - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phan Thị Lan H: Bà Phạm Kim A, sinh năm 1955 – là luật sư thuộc Đoàn luật sư TP Hồ Chí Minh. Đơn xin xét xử vắng mặt 18. Bà Trần Thị G, sinh năm 1959; Trú tại: tỉnh Thừa Thiên Huế. (Nguyên là người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần đầu tư du lịch và thương mại Lee H, (sau đổi thành Công ty cổ phần Đoàn H). Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được xác định như sau:

Dự án Khu thương mại - dịch vụ V (sau đây gọi tắt là Dự án) do Công ty Cổ phần đầu tư khu du lịch Phim trường V (sau đây gọi tắt là Công ty phim trường V) làm chủ đầu tư, được UBND tỉnh Quảng Ngãi cấp Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu số 3412100036 ngày 18.11.2008, giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh lần thứ nhất số 34121000036/GCNDDC/34/1 ngày 19.8.2014. Do dự án triển khai chậm tiến độ nên Sở kế hoạch đầu tư có Công văn số 1109/SKHĐT-KTĐN ngày 19.7.2017 trình UBND tỉnh xem xét, chấm dứt hoạt động và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư dự án.

Khoảng đầu năm 2017, Đoàn Thị V biết được thông tin Dự án thuộc diện bị thu hồi nên nảy sinh ý định tìm cách tiếp cận.

V thành lập Công ty Cổ Phần Đầu tư xây dựng bất động sản T (sau đây gọi tắt là Công ty T), thuê nhà tại địa chỉ số 1381 đường N, thành phố Đà Nẵng làm trụ sở và lấy tên các con ruột là Dương Thành V (SN: 16/12/1988, CMND Số 191737821 do CAT Thừa Thiên Huế cấp ngày 24/10/2006) làm Chủ tịch HĐQT, Dương Thị Đoan T (SN: 17/02/1998, CMND Số 191901431 do CAT Thừa Thiên Huế cấp ngày 02/7/2013) làm thành viên HĐQT. Số vốn điều lệ đăng ký là 90.000.000.000 đồng, nhưng thực chất Công ty không có tài sản gì. Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ ba ngày 25.8.2017, Công ty T tăng vốn điều lệ lên 290.000.000.000 đồng. Ngày 15.11.2017, Công ty thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật, theo đó, Ngô Thị Cúc H được bổ nhiệm làm Giám đốc - Người đại diện pháp luật.

Ngoài ra, V thành lập Công ty Cổ phần Đoàn H, lấy tên con gái Dương Thị Đoan T làm Chủ tịch HĐQT và thuê ông Phan Văn S (SN: 1981, HKTT: TP Đà Nẵng) làm giám đốc - người đại diện pháp luật, có vốn đầu tư chủ sở hữu là 119.000.000.000 đồng. Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ bảy ngày 29.3.2017 thì Công ty có vốn điều lệ là 119.000.000.000 đồng, thực chất Công ty không có tài sản gì. Qua các tài liệu do Cục thuế thành phố Đà Nẵng cung cấp thì các Công ty này đều không phát sinh hoạt động kinh doanh gì.

Đoàn Thị V tự giới thiệu tên là Nguyễn Thị Trúc P, là Việt kiều Mỹ về Việt Nam sinh sống làm ăn và là Chủ tịch HĐQT Công ty T, đi cùng Ngô Thị Cúc H đến gặp Ban giám đốc Công ty Phim trường V trình bày muốn mua lại dự án. Ông Nguyễn Thanh P - Giám đốc Công ty Phim trường V và bà Trần Thị T T - kế toán trưởng trực tiếp làm việc với V. Ông P giải thích cho V biết nếu muốn mua lại Dự án thì đối tác phải chứng minh năng lực tài chính và được sự đồng ý về chủ trương của UBND tỉnh Quảng Ngãi.

Theo thống nhất giữa hai bên thì bên nhận chuyển nhượng gồm: Công ty T, Công ty Cổ phần Đoàn H và ông Dương Thanh V, các đơn vị này ủy quyền cho Công ty T làm đại diện. Dự kiến vốn đầu tư 795.000.000.000 đồng, trong đó vốn góp của các cổ đông 295.000.000.000 đồng, vốn vay, vốn huy động là 500.000.000.000 đồng.

Do không có bất cứ tài sản nào để chứng minh năng lực tài chính, V tự lập và cung cấp cho Công ty Phim trường V các tài liệu gồm:

+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ ba của Công ty T thể hiện việc Công ty T tăng vốn điều lệ lên 290.000.000.000 đồng;

+ Giấy chứng nhận đăng ký thay đổi lần thứ bảy của Công ty cổ phần Đoàn H thể hiện công ty có vốn điều lệ là 119.000.000.000 đồng;

+ Giấy xác nhận số dư tiền gửi của các sổ tiết kiệm, tài khoản đứng tên Dương Thanh V gồm : Sổ tiết kiệm số 0786010904053 tại Ngân hàng TMCP A, số dư đến ngày 12.10.2017 là 14.000.000.000 đồng; Sổ tiết kiệm số 0786010905050 tại Ngân hàng TMCP A, số dư đến ngày 12.10.2017 là 10.000.000.000 đồng; Xác nhận số dư tiền gửi tại tài khoản số 56110002532757 tại Ngân hàng B chi nhánh Đà Nẵng đến ngày 11.10.2017 có số dư 14.000.000.000 đồng.

Để có xác nhận số dư tiền gửi tại các Ngân hàng, V nhờ người chuyên làm dịch vụ cho vay nóng gửi tiết kiệm (không rõ nhân thân, lai lịch), mang tiền ra Đà Nẵng đến các Ngân hàng trên cho V làm thủ tục mở sổ tiết kiệm đứng tên V, nộp vào tài khoản để lấy xác nhận số dư rồi tất toán ngay trong ngày, rút tiền trả lại cho đối tượng làm dịch vụ, phí dịch vụ V trả cho người này là 150.000.000 đồng. Qua xác minh, các Ngân hàng xác định số tiền trong các sổ tiết kiệm và tài khoản đều được gởi vào và tất toán trong ngày.

+ Hối phiếu số 3490581 ngày 18.7.2017 do Ngân hàng TNHH MTV X Việt Nam phát hành có nội dung xác nhận tổng số tiền 100.000.000 Euro, thời hạn đến 20.7.2018, Công ty T có thể sử dụng với đúng mục đích đầu tư của dự án.

Ngày 08.01.2020, Ngân hàng TNHH MTV X Việt Nam có Công văn số 002.2020/FCTM-X trả lời Công văn số 3447/CSĐT-KT(Đ4) ngày 09.12.2019 của Cơ quan điều tra nội dung: “Qua kiểm tra thông tin với Ngân hàng X tại Anh, chúng tôi xác nhận rằng Ngân hàng X tại Anh không phát hành thư xác nhận ngày 18.7.2017 liên quan đến Hối phiếu số 3490581”.

Sau khi nhận hồ sơ chứng minh năng lực tài chính do V cung cấp, thấy Công ty T có đủ năng lực để nhận chuyển nhượng, Công ty phim trường V và Công ty T tiến hành ký hết Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần số: HĐCNCP/2017 ngày 19.7.2017 “v/v chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của Công ty Phim trường V”. Tổng số lượng cổ phần chuyển nhượng: 100.000.000 cổ phần, tương đương tổng giá trị chuyển nhượng là 72.000.000.000 đồng. Giá trị chuyển nhượng cổ phần bao gồm toàn bộ hiện trạng Công ty đến thời gian chuyển nhượng gồm: Tổng số đất nền đã có sổ hồng 182 nền; Công nợ phải thu là 15.101.300.000 đồng tương ứng với 84 lô đất đã bán; Công nợ phải trả là 1.477.058.959 đồng; Cam kết số nền đã bán; Tổng diện tích đất chưa đền bù giải tỏa bên Công ty T được phép đầu tư theo Giấy chứng nhận đầu tư của UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 19.8.2014 là 44,24ha. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký Hợp đồng nguyên tắc này Công ty T phải thanh toán 100% tổng giá trị chuyển nhượng cho Công ty Phim trường V là 72.000.000.000 đồng. Hai bên làm hợp đồng công chứng chuyển nhượng 100% cổ phần tại Phòng công chứng, Công ty Phim trường V sẽ nhận tiền ngay tại thời điểm công chứng.

Ngày 16.8.2017, Công ty phim trường V có tờ trình số 16/TTr-CTY gởi UBND tỉnh Quảng Ngãi đề nghị UBND tỉnh xem xét ban hành văn bản cho phép Công ty phim trường V chuyển nhượng dự án cho Công ty T.

Sau khi xem xét hồ sơ năng lực tài chính của Công ty T, ngày 11.10.2017, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Ngãi có Công văn số 1585/SKHĐT-KTĐN đề nghị UBND tỉnh Quảng Ngãi xem xét, có văn bản thống nhất chủ trương cho phép Công ty Phim trường V chuyển nhượng toàn bộ cổ phần cho Công ty T.

Ngày 18.10.2017, UBND tỉnh có Công văn số 6427/UBND-CNXD giao Sở kế hoạch đầu tư hướng dẫn, hỗ trợ việc chuyển nhượng cổ phần giữa hai Công ty.

Ngày 02.01.2018, Ngô Thị Cúc H đại diện Công ty T ký kết Hợp đồng liên danh số 01/2018/HĐLD với Công ty Phim trường V. Sau nhiều lần hứa hẹn thanh toán tiền chuyển nhượng cổ phần nhưng chưa thực hiện. V yêu cầu Công ty Phim trường V cho phép Công ty T được triển khai hoàn thiện phần còn lại ở vị trí 182 lô đất nền đã được cấp GCNQSDĐ nhưng Công ty phim trường V không đồng ý.

Đối với 182 lô đất này, từ khi triển khai dự án đến năm 2015, Công ty Phim trường V đã triển khai giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật hơn 12ha, trong đó có 182 lô đất nền khu nhà phố liền kề và được Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cấp 182 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Công ty Phim trường V. Trong số 182 lô đất này, Công ty Phim trường V đã đưa cho Công ty Cổ phần X 12 GCNQSDĐ để cấn trừ phần nợ 4,9 tỷ đồng thực hiện san lấp mặt bằng và ký 46 hợp đồng góp vốn đầu tư vào Dự án để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với một số khách hàng tương đương 72 lô đất, chỉ còn 98 lô đất chưa có chủ sở hữu.

Công ty Phim trường V cung cấp cho Công ty T hồ sơ dự án, trong đó có Bản cam kết số 41/CTY ngày 18.12.2015 gởi Sở T nguyên và Môi trường Quảng Ngãi về việc không chuyển quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép bán nền đối với 182 lô đất nhà liền kề Khu tái định cư thuộc Dự án.

Ngày 26.9.2017, Công ty T và Công ty Phim trường V lập Biên bản cam kết giải quyết công nợ.

Ngày 07.02.2018, Ngô Thị Cúc H đại diện Công ty T ký kết Biên bản thỏa thuận nhận nợ số 01/2018/GNN, tuy nhiên, Công ty T không chuyển tiền như Biên bản thỏa thuận.

Ngày 16.8.2018, V thông báo với bà Trần Thị T T (Kế toán Công ty Phim trường V) là đã chuẩn bị đủ số tiền để thực hiện việc nhận chuyển nhượng cổ phần, yêu cầu ông P và bà T chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, chứng từ và thông báo cho các cổ đông biết để thực hiện việc ký kết hợp đồng vào ngày 18.8.2018, tại Trụ sở Công ty CP đầu tư và công nghiệp Tân Tạo (là cổ đông chính của Công ty Phim trường V, địa chỉ tại Lô 16-18 đường 2, KCN Tân Tạo, Q.Bình Tân, TP Hồ Chí Minh).

Bà T chuẩn bị và mang theo vào Tp Hồ Chí Minh tài liệu liên quan, trong đó có bản chính 168 GCNQSDĐ của dự án. Sáng ngày 18.8.2018, các cổ đông của Công ty Phim trường V gồm Công ty CP đầu tư và công nghiệp Tân Tạo, Công ty CP đầu tư tin học và tư vấn xây dựng P Nam, Công ty CP đầu tư xây dựng và phát triển Tân Đông P cùng đến để ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Công ty T, Công ty Cổ phần Đoàn H và Dương Thành V ủy quyền cho Công ty T do Ngô Thị Cúc H làm giám đốc ký kết hợp đồng. Hai bên ký vào hợp đồng có sự chứng kiến của Công chứng viên thuộc Văn phòng công chứng Vương Mỹ Hằng. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng xong thì V không chuyển tiền cho các cổ đông theo thỏa thuận do không có tiền và hồ sơ ủy quyền cho H còn thiếu nên Công chứng viên mang toàn bộ Hợp đồng về phòng công chứng.

Thời điểm vào TP Hồ Chí Minh ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, bà Trần Thị T T ở chung phòng với H tại khách sạn. Sau khi làm việc xong thì bà T đi thăm người nhà, để lại trong phòng khách sạn toàn bộ hồ sơ trong đó có 168 GCNQSDĐ. Sau khi bà T đi thì V lấy toàn bộ các GCNQSDĐ đó mang về Đà Nẵng và hứa mang vào Quảng Ngãi cho bà T. Tuy nhiên, sau đó V chỉ trả lại 151 GCNQSDĐ, giữ lại 17 GCNQSDĐ. Từ tháng 9.2018 đến tháng 3.2019, Công ty Phim trường V liên tục có công văn gởi Công ty T yêu cầu chuyển tiền thực hiện hợp đồng và trả lại bản gốc 17 GCNQSDĐ nhưng V không trả lại, sau đó không liên lạc được với V nên Công ty Phim trường V làm đơn báo mất và đã được cấp lại toàn bộ. Ngày 26.02.2019, Công ty Phim trường V gởi Công văn số 02/CTY đến Công ty T thông báo hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hết liệu lực kể từ ngày 12.12.2018, bên chuyển nhượng được quyền chuyển nhượng cho đối tác khác, mọi chi phí bên nhận chuyển nhượng bỏ ra không được hoàn trả theo thỏa thuận của hai bên.

Sau khi lấy được 17 Giấy CNQSDĐ, V sử dụng các Giấy CNQSDĐ này để huy động vốn, V đưa cho bà Đoàn Thị S 10 Giấy CNQSDĐ để nhờ tìm người vay tiền hoặc đầu tư vào dự án. Bà Đoàn Thị S đã liên hệ với bà Phan Thị Lan H (sinh năm 1977, Trú tại: 7/28 Thành Thái, phường 14, quận 10, Tp Hồ Chí Minh) mượn số tiền 10 tỷ đồng, thế chấp lại 10 Giấy CNQSDĐ để làm tin. Sau khi thỏa thuận với bà S và bà V, bà H đã chuyển khoản từ tài khoản của bà H đến tài khoản của ông Nguyễn Hữu H (anh rễ của bà Ngô Thị Cúc H) số tiền 10 tỷ đồng theo yêu cầu của bà V. Sau khi nhận chuyển khoản ông Nguyễn Hữu H tiếp tục chuyển khoản số tiền 10 tỷ đồng này cho Dương Thị Đoan T (con gái bị cáo V); T tiếp tục chuyển khoản cho ông Nguyễn Đức C (chồng bà Đoàn Thị S) 3 tỷ đồng và chuyển khoản cho bà Đoàn Thị S 3,5 tỷ đồng theo yêu cầu của bị cáo V.

Khoảng tháng 9.2018, mặc dù hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chưa có hiệu lực, chưa chuyển tiền cho Công ty Phim trường V; nhưng V liên hệ với bà Lê Thị T - đại diện Công ty Cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung (sau đây gọi tắt là Công ty L), đưa cho bà T xem bản photo các Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ký kết với các cổ đông của Công ty Phim trường V, công văn số 6427/UBND-CNXD của UBND tỉnh Quảng Ngãi và nói rằng mình là chủ mới của Dự án và chào bán 182 lô đất của Dự án khu thương mại dịch vụ V với giá 102.348.500.000 đồng, hứa hẹn sẽ cho Công ty L là đơn vị phân phối độc quyền 182 nền đất đã có GCNQSDĐ đứng tên Công ty phim trường V.

Ngày 31.10.2018, Ngô Thị Cúc H cùng bà Đoàn Thị S đại diện Công ty T ký kết “Hợp đồng phát triển và phân phối độc quyền số 02/HĐPT&PPĐQ-LSHMT- TĐ” với Công ty L về việc để Công ty L độc quyền phân phối 182 nền đất tại dự án Khu thương mại dịch vụ V do Công ty Phim trường V làm chủ đầu tư. Tổng giá trị hợp đồng là 102.348.500.000 đồng, được thanh toán 03 lần.

Theo hợp đồng đã ký, Công ty L đã thanh toán 22.984.000.000 đồng của giai đoạn 1 cho Công ty T vào tài khoản của Công ty T số 56110001133X tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển chi nhánh Đà Nẵng và tài khoản cá nhân của Đoàn Thị S - là kế toán Công ty.

Số tiền này được V sử dụng như sau:

+ V yêu cầu H chuyển trả nợ bà Phan Thị Lan H 12.000.000.000 đồng. Đây là số tiền mà V sử dụng 10 GCNSQDĐ lấy của Công ty phim trường V thế chấp để vay số tiền 10.000.000.000 đồng.

+ Chuyển cho Công ty Phim trường V 4.900.000.000 đồng. Quá trình điều tra xác định Công ty X là đơn vị thực hiện gói thầu san lấp mặt bằng, do Công ty Phim trường V nợ tiền san lấp nên Công ty X giữ 12 GCNQSDĐ. Khi phát hiện Công ty L chào bán các lô đất thì Công ty X phản ứng và yêu cầu làm rõ nên V chỉ đạo H chuyển tiền để trả cho Công ty X để tránh việc bị Công ty X khởi kiện ra Tòa.

+ Số tiền còn lại (khoảng 6.000.000.000 đồng) chuyển vào tài khoản của bà Đoàn Thị S, S khai đã đưa số tiền này cho H, được H viết giấy xác nhận.

Sau khi ký hợp đồng và chuyển tiền, Công ty L chào bán các lô đất ra thị trường thì nhận được văn bản số 10/CTY ngày 09.11.2018 của Công ty Phim trường V về việc ngăn chặn giao dịch và khẳng định có dấu hiệu lừa đảo. Lúc này, V tắt điện thoại, bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh. H lấy lại 10 GCNQSDĐ từ bà H đưa cho bà T để làm tin kèm văn bản đề ngày 23.02.2019 gởi Công ty L thể hiện nội dung : Công ty T đồng ý trả lại số tiền 23.000.000.000 đồng cho Công ty L vào ngày 25.3.2019, giao cho Công ty L 10 GCNQSDĐ để làm tin, các sổ này Công ty T đã mua lại của Công ty Phim trường V nhưng chưa sang tên, phía dưới phần ký tên đóng dấu, H viết thêm nội dung “Tôi Ngô Thị Cúc H cam kết các thông tin về 10 cuốn sổ đỏ trên là đúng sự thật và thuộc quyền sở hữu của Công ty T”.

Ngày 03.01.2019, sau khi tìm hiểu, biết Công ty T chưa phải là cổ đông mới của Công ty Phim trường V và dự án cũng chưa cho phép chào bán các lô đất, Công ty L đã gửi thông báo Chấm dứt hợp đồng phát triển và phân phối độc quyền số 02/HĐPT&PPĐQ-LSHMT-TĐ cho Công ty T, yêu cầu Công ty T hoàn trả lại toàn bộ tiền nhưng không nhận được phản hồi từ công ty T. Do vậy, Công ty L gửi đơn tố cáo đến cơ quan chức năng.

Cơ quan CSĐT - Công an TP Đà Nẵng tiến hành giám định hình dấu và chữ ký trên “Hợp đồng phát triển và phân phối độc quyền số 02/HĐPT&PPĐQ- LSHMT-TĐ ngày 31.10.2018. Tại kết luận giám định số 36/GĐ-TL ngày 27.4.2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Đà Nẵng kết luận :

- Hình dấu trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với hình dấu trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M4 đến M7 do cùng một con dấu đóng ra.

- Chữ ký mang tên Ngô Thị Cúc H trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký đứng tên Ngô Thị Cúc H trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M5 do cùng một người ký ra.

Ngoài việc cùng Ngô Thị Cúc H lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty L, khoảng năm 2018, qua sự giới thiệu của Đoàn Thị S, ông Hồ T S (trú 183/18 đường Tôn Đản, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng) gặp Đoàn Thị V và thực hiện một số giao dịch vay mượn tiền, giao dịch chuyển nhượng đất đai. Đến tháng 01.2019, V và bà S hẹn gặp ông S. V nói với ông S vừa giao dịch xong dự án ở Quảng Ngãi với Công ty L, đưa ông S xem Hợp đồng phát triển và phân phối độc quyền giữa Công ty T và Công ty L để ông S tin tưởng để hỏi mượn ông S số tiền 1.000.000.000 đồng để mua lại khách sạn C. V hứa nếu ông S cho mượn tiền thì sẽ trả lại cho ông S số tiền 200.000.000 đồng là khoản ông S phải đền bù cho V trong giao dịch chuyển nhượng đất đai trước đây, đồng thời sẽ bán rẻ cho ông 01 lô đất trong Dự án Khu thương mại dịch vụ V và hứa 07 ngày sau sẽ trả lại tiền. Ông S tin tưởng nên đến Văn phòng công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại số 183/18 đường T cho ông Trần Minh K (trú thành phố Đà Nẵng) lấy 1.000.000.000 đồng giao cho V. Việc giao nhận tiền xảy ra tại Khách sạn N Đà Nẵng, không có giấy tờ nhưng có sự chứng kiến của Đoàn Thị S. Sau khi nhận tiền, V vào thành phố Hồ Chí Minh, cắt đứt liên lạc cho đến khi bị bắt theo Quyết định truy nã số 01/CSĐT-KT(DD4) ngày 11.02.2020 của Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Đà Nẵng.

*Phần dân sự : Các bị cáo đã trả lại cho Công ty L miền Trung số tiền 1.850.000.000 đồng (Trong đó: Dương Thị Đoan T (con gái bị cáo V bồi thường 800.000.000 đồng, bị cáo Ngô Thị Cúc H nhân danh Công ty T bồi thường 1.050.000.000 đồng). Bà Lê Thị T yêu cầu các bị cáo trả lại số tiền còn chiếm đoạt cho Công ty L miền Trung.

Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Đà Nẵng có Quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu số 80/CSĐT-KT(Đ4) ngày 11.8.2020, tạm giữ số tiền 12.000.000.000 đồng do bà Phan Thị Lan H (trú 7/28 đường Thành Thái, phường 14, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh) quản lý, tuy nhiên đến nay bà H chưa giao nộp.

*Tang tài vật thu giữ :

- Công ty Phim trường V nộp 4.900.000.000 đồng vào tài khoản tạm giữ số 3941.0101223000000 của Sở tài chính tại Kho bạc Nhà nước thành phố Đà Nẵng.

- 01 con dấu tên có chữ Công ty CPĐT XD BĐS T.

- 01 con dấu tên có chữ Công ty CPĐT DL&TM Lee H.

- 01 con dấu chữ ký (màu xanh). (H khai đây là con dấu làm theo mẫu chữ kỹ của V đưa để đóng dấu chữ ký tên Dương Thành V) - 01 dấu tên (màu đỏ) có chữ Dương Thành V.

- 05 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty T.

Truy tố: Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSĐN-P2 ngày 11 tháng 5 năm 2021 và Công văn số 162/VKS-P2 ngày 29/6/2021 về việc đính chính cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm ngày 19/10/2021, Hội đồng xét xử đã ban hành Quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung: Đề nghị điều tra làm rõ vai trò đồng phạm của bà Đoàn Thị S và một số vấn đề khác có liên quan trong vụ án.

Ngày 15/12/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Đà Nẵng ban hành Bản kết luận điều tra bổ sung số 138/CSĐT-KT (Đ4) xác định không có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự bà Đoàn Thị S đồng phạm với các bị cáo V và H.

Ngày 08/2/2022, Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng ban hành Công văn số 49/VKS-P2, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng số 55/VKS-CT-P2 ngày 11/05/2021.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng giữ nguyên quan điểm truy tố, khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo V và H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; không có đủ căn cứ để xác định bà Đoàn Thị S đồng phạm với các bị cáo V và H trong vụ án; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo V từ 18 đến 20 năm tù.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo H từ 14 đến 16 năm tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 586, 587 và 589 Bộ luật dân sự: Buộc các bị cáo V và H phải liên đới bồi thường số tiền còn chiếm đoạt là 22.984.000.000 đồng – 1.850.000.000 đồng = 21.134.000.000 đồng cho bị hại là Công ty L Miền Trung nay là Công ty L và buộc bị cáo V bồi thường cho ông Hồ T S số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng) theo quy định pháp luật.

+ Về xử lý tang vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Quy trữ số tiền 4,9 tỷ đồng thu giữ từ Công ty Phim trường V để đảm bảo thi hành án cho Công ty L. Đối với số tiền 12 tỷ đồng các bị cáo V, H và bà S trả cho bà Lan H; đây là giao dịch dân sự có thật, đã được các bên tất toán trước ngày khởi tố vụ án, không có tranh chấp gì đối với khoản tiền này, số tiền trên bà Lan H đã sử dụng, luân chuyển, không thu hồi được, nên không có cơ sở xử lý vật chứng hay thu hồi mà buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Công ty L.

- Các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H thừa nhận về hành vi đã thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã nêu và kết luận, thừa nhận phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, các bị cáo đề nghị xem xét vai trò của bà Đoàn Thị S trong vụ án vì cho rằng bà S có tham gia vào việc thương thảo, ký kết hợp đồng, nhận tiền và sử dụng tiền do Công ty L chuyển. Bị cáo V cho rằng bà Đoàn Thị S đã sử dụng số tiền vay được của bà Phan Thị Lan H và một phần tiền nhận từ Công ty L để trả nợ cá nhân. Bị cáo H cho rằng chỉ là người giúp việc cho bị cáo V, làm theo sự chỉ đạo của bị cáo V; Các Giấy xác nhận nhận tiền đề ngày 3/11/2018, 7/11/2018 và 9/11/2018 giữa bị cáo H với bà Đoàn Thị S là được lập sau thời điểm ghi trên giấy, là hợp thức, do bà Đoàn Thị S đưa cho H ký sau khi Công ty L tố cáo và Công an đã thụ lý đơn tố cáo mời làm việc, bị cáo H cho rằng không nhận số tiền 4.960.000.000 đồng từ bà Đoàn Thị S. Bị cáo V cho rằng không nhận số tiền 1.610.000.000 đồng từ bà S.

Nói lời sau cùng: Các bị cáoxin Hội đồng xét xử xem xét nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình và các tình tiết giảm nhẹ như đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã bồi thường và tác động gia đình bồi thường được một phần thiệt hại cho bị hại, xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo V xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

- Quan điểm bào chữa của Luật sư Nguyễn Anh T cho bị cáo Đoàn Thị V: Thống nhất về tội danh, điểm khoản Điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo V. Tuy nhiên, luật sư đề nghị:

+ Xem xét trả hồ sơ vụ án để điều tra, làm rõ và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Đoàn Thị S trong cùng vụ án, xem xét trách nhiệm liên đới bồi thường của bà S trên số tiền mà bà S đã thực nhận của Công ty L. Xem xét làm rõ quan hệ giữa bị cáo V, bà S với bà Lan H là vay mượn tiền hay chuyển tiền mua đất Dự án, làm rõ sự mâu thuẫn trong lời khai của các bị cáo, bà S, bà H trong quan hệ này; xác định rõ có hay không hành vi gian dối, có dấu hiệu của tội phạm trong việc xác lập giao dịch này không; điều tra làm rõ việc sử dụng số tiền 10 tỷ đồng của bà Lan H của ông Nguyễn Đức C và bà Đoàn Thị S.

+ Trường hợp xét xử, luật sư cho rằng: Bản thân bị cáo V ban đầu cũng có ý muốn thực hiện Dự án với Công ty Phim trường V, nhưng không không hiểu biết pháp luật, cùng với việc không có đủ số vốn, nên mới dẫn đến việc bị cáo V đi huy động vốn từ bà Lan H và Công ty L. Toàn bộ số tiền nhận được từ Công ty L, bị cáo V đã chuyển trả 12 tỷ cho bà Lan H, 4,9 tỷ đồng cho Công ty V, còn lại hơn 6 tỷ đồng do bà Đoàn Thị S chiếm giữ, như vậy bị cáo V hầu như không chiếm đoạt tiền của Công ty L; đề nghị xem xét làm rõ việc nhận và sử dụng tiền của bà Đoàn Thị S và buộc bà S có trách nhiệm bồi thường cho L. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo V cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; đã tác động người thân trong gia đình bồi thường được 1 phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo tiền sử có nhiều bệnh nền như u não, đái tháo đường; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt… và xử phạt bị cáo mức án nhẹ hơn mức án mà Viện kiểm sát đề nghị.

- Quan điểm bào chữa của luật sư Ông Quốc Cường cho bị cáo Ngô Thị Cúc H: Thống nhất về tội danh, điểm khoản Điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo V. Tuy nhiên, luật sư đề nghị xem xét các tình tiết sau:

+ Cho rằng trong vụ án này bị cáo H chỉ là người bị lợi dụng, giữ vai trò giúp sức không đáng kể, thực hiện hành vi theo sự chỉ đạo của bị cáo V, toàn bộ số tiền nhận từ Công ty L bị cáo H đều chi theo sự chỉ đạo của bị cáo V và bà Đoàn Thị S, không được hưởng lợi từ số tiền chiếm đoạt của bị hại mà chỉ được bị cáo V cưu mang và trả tiền sinh hoạt phí. Luật sư cho rằng đây không phải là vụ án phạm tội có tổ chức vì bị cáo thực tế không được bàn bạc cụ thể gì mà đơn thuần chỉ làm theo chỉ đạo của bị cáo V. Luật sư cũng đề nghị bác bỏ chứng cứ là Giấy nhận tiền đề ngày 3/11/2018 và ngày 9/11/2018 về việc bị cáo H có nhận 4.960.000.000 đồng từ bà S vì đây là chứng cứ ngụy tạo, được lập sau thời điểm ghi trên GIấy, được lập sau khi Công an đã mời bà S lên làm việc, bà H không nhận số tiền này; sao kê tài khoản của bà S cũng không thể hiện có việc bà S rút các khoản tiền trên để đưa cho bị cáo H; bị cáo H và bị cáo V phủ nhận lời khai của bà S về việc có giao nhận số tiền trên, nên cần buộc bà S phải chịu trách nhiệm đối với số tiền này.

+ Xem xét trả hồ sơ vụ án để điều tra, làm rõ và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Đoàn Thị S trong cùng vụ án, xem xét trách nhiệm liên đới bồi thường của bà S trên số tiền mà bà S đã thực nhận của Công ty L. Hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp trên xem xét vai trò, trách nhiệm của bà S trong vụ án, tránh việc bỏ lọt người phạm tội.

+ Nếu xét xử thì khi quyết định hình phạt đối với bị cáo H cần xem xét tính chất, mức độ phạm tội và cá thể hóa vai trò đồng phạm giúp sức không đáng kể của bị cáo H; thực tế bị cáo H không được hưởng lợi gì trong vụ án; xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; trước khi vụ án được khởi tố bị cáo H đã tự nguyện bồi thường 1 phần tiền cho Công ty L, quá trình giải quyết vụ án đã tác động gia đình bồi thường thêm được; bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình có công với cách mạng, bị hịa xin giảm nhẹ hình phạt; áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt và xử phạt bị cáo mức án nhẹ hơn mức án mà Viện kiểm sát đề nghị.

- Bị hại là Công ty L trình bày và đề nghị:

+ Trả hồ sơ vụ án để làm rõ hành vi phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” hoặc tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của bà Phan Thị Lan H; làm rõ hành vi phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của ông Nguyễn Đức C và bà Đoàn Thị S; làm rõ hành vi đồng phạm tội với các bị cáo V và H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của bà Đoàn Thị S.

+ Buộc các bị cáo V, H và bà Đoàn Thị S liên đới chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả số tiền chiếm đoạt còn lại là 21.134.000.000 đồng. Trong đó, bà S phải bồi thường 6.170.000.000 đồng; bị cáo V và H phải liên đới bồi thường 14.964.000.000 đồng.

+ Hoàn trả cho bị hại số tiền 4.900.000.000đồng do Công ty Phim trường V giao nộp.

+ Xem xét hậu quả pháp lý của 10 lô đất theo 10 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Công ty Phim trường V mà các bị cáo đã giao cho Công ty L và xem xét trách nhiệm của ông Nguyễn Thanh P trong vụ án.

+ Tại phiên tòa, đại diện bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Bị hại là ông Hồ T S trình bày: Cho rằng bà Đoàn Thị S có giúp sức cho bị cáo V trong việc lừa đảo của ông 1.000.000.000 đồng; đề nghị xem xét vai trò của bà S trong vụ án.

- Bà Đoàn Thị S và luật sư Nguyễn Lê V thống nhất trình bày: Đầu năm 2018 thông qua sự giới thiệu của ông Hồ T S, bà S có gặp gỡ và quen biết bà Nguyễn Thị Trúc P (tức Đoàn Thị V, bà Hai) và bà Ngô Thị Cúc H(Cưng), được bà H giới thiệu bà P (V) là Việt kiều sở hữu Công ty T; sau đó bà nhận lời giúp bà H và bà P (V) về làm giấy tờ sổ sách kế toán cho Công ty T. Quá trình bà V và bà H đàm phán nhận chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng cổ phần với Công ty Phim trường V bà không biết, không tham gia.Các quyết định bổ nhiệm bà làm Giám đốc tài chính Công ty T đề ngày 12/9/2016 và quyết định bổ nhiệm bà làm Kế toán Công ty là do bà H ký phát hành theo chỉ đạo của bà V; bà không biết, chỉ sử dụng quyết định bổ nhiệm Kế toán để đăng ký mở 02 tài khoản cho Công ty T. Sau khi bà V tiếp xúc với Công ty L về việc chuyển nhượng cho Công ty L làm nhà phân phối độc quyền 182 lô đất đứng tên Công ty Phim trường V, thì bà V có đưa các hồ sơ tài liệu, hợp đồng liên quan đến việc ký kết chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng cổ phần, các văn bản đồng ý của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, các Gấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Công ty Phim trường V cho bà xem nên bà hoàn toàn tin tưởng Công ty T đã nhận chuyển nhượng dự án, có quyền định đoạt bán các lô đất trên, từ đó bà mới nghe theo lời của bà V đi cùng với bà H để thương thảo và ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cho Công ty L; để thuận tiện cho việc thanh toán và chuyển tiền, theo chỉ đạo của bà V, bà có cung cấp số tài khoản cá nhân của bà cho Công ty L và có nhận chuyển khoản 5 tỷ 210 triệu đồng và 960 triệu đồng tiền mặt từ Công ty L (tổng 6.170.000.000 đồng) và nhận chuyển khoản từ Công ty T số tiền 12.400.000.000 đồng. Số tiền trên bà đã sử dụng như sau: Trả cho bà Phan Thị Lan H 12.000.000.000 đồng, giao tiền mặt cho bà H 4.960.000.000 đồng (bà H có viết giấy xác nhận), còn 1.610.000.000 đồng bà đã nhiều lần rút tiền mặt đưa cho bị cáo V và mua vé máy bay, card điện thoại, trả tiền dịch vụ cho bà V, nhưng không có giấy tờ chứng minh, chỉ có sự chứng kiến của bà H, được bà H xác nhận toàn bộ số tiền nhận từ Công ty L do Công ty T chịu trách nhiệm không liên quan đến bà S và đã được Kết luận tại Bản kết luận điều tra bổ sung của Cơ quan Công an, như vậy bà S hoàn toàn không được lợi hay chiếm hưởng đồng nào trong tổng số tiền 22.984.000.000 đồng của Công ty L. Bà S không biết được mục đích việc làm lừa đảo của bị cáo V và H đối với Công ty L; thực hiện các hành vi có liên quan là do quá tin tưởng bị cáo V và bị cáo H, toàn bộ số tiền nhận được thì bà đã chuyển khoản theo yêu cầu của bị cáo V, đưa tiền mặt cho bị cáo V và H, bà không chiếm dụng hay hưởng lợi gì trong số tiền tiền trên. Ngoài ra, bà S còn cho rằng trong thời gian quen bị cáo V (tức P, bà Hai) do tin tưởng bị cáo V, bà đã nhiều lần vay mượn tiền của người thân, người quen để đưa cho bị cáo V đầu tư vào dự án, bà có giới thiệu bà V vay 10 tỷ đồng của bà Lan H, sau đó theo thỏa thuận bà có dùng 3,5 tỷ đồng trong số tiền 10 tỷ đồng vay mượn của bà Lan H, do Dương Thị Đoan T (con của bị cáo V) chuyển khoản để tất toán các khoản nợ mà bà đã vay đưa cho bị cáo V.Do vậy, bà S và luật sư cho rằng:

+ Không có căn cứ nào để xác định bà Đoàn Thị S cùng cố ý đồng phạm tội với bị cáo V và H trong việc lừa đảo Công ty L theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Bản thân bà S cũng bị chính các bị cáo trong vụ án lợi dụng; bà S hoàn toàn không tham gia vào quá trình thương thảo ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần Dự án với Công ty Phim trường V;

+ Việc thương thảo, thỏa thuận các điều khoản chủ yếu của Hợp đồng với Công ty L là do bị cáo V đã nhiều lần làm việc và thống nhất với bà T và ông Hào đại diện của Công ty L có sự chứng kiến của bà S, chứ bản thân bà S không có quyền quyết định gì liên quan đến giá cả và phương thức thanh toán của Hợp đồng. Bà S có ký nháy vào từng trang của Hợp đồng là làm theo yêu cầu của bị cáo H và bà T, việc bà S cung cấp số tài khoản cá nhân của bà và ghi vào Hợp đồng là theo chỉ đạo của bị cáo V để giao dịch chuyển khoản vào thứ bảy, chủ nhật.

+ Bản thân bà S cũng là người bị bà V lừa đảo, khi đã cầm cố nhà đất cho Ngân hàng và ông Trần Minh K, vay mượn tiền của nhiều người đưa cho bị cáo V; sau khi bị cáo V bị bắt thì bà S cũng đã tố cáo bà V đến Công an Tp Đà Nẵng nhưng do chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ nên Công an yêu cầu tiếp tục thu thập tài liệu chứng cứ để được xem xét.

Từ đó, luật sư đề nghị bác bỏ lời khai của các bị cáo, bị hại, người liên quan trong vụ án cho rằng bà S đồng phạm tội với bị cáo V và H trong việc lừa đảo Công ty L.

- Theo văn bản gửi Tòa, đại diện Công ty Phim trường V trình bày: Đối với 17 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty Phim trường V bị các bị cáo trong vụ án chiếm giữ dùng làm phương tiện phạm tội; Công ty Phim trường V đã đề nghị cơ quan chức năng cấp lại, nay xét không còn liên quan nên đề nghị tiêu hủy hoặc lưu giữ làm chứng cứ của vụ án. Đối với số tiền 4,9 tỷ đồng Công ty Phim trường V giao nộp theo yêu cầu của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Đà Nẵng, đây là số tiền mà Công ty được hưởng theo thỏa thuận tại Hợp đồng liên danh, Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và Văn bản cam kết của Công ty T, do Công ty T vi phạm nghĩa vụ theo Hợp đồng và theo cam kết, nên số tiền trên thuộc sở hữu của Công ty Phim trường V, nên Công ty đề nghị HĐXX tuyên trả lại số tiền này cho Công ty. Công ty V cũng cho rằng và đề nghị xem xét vai trò đồng phạm của bà Đoàn Thị S trong vụ án.

- Đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị Lan H và luật sư Phạm Kim Anh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Phan Thị Lan H thống nhất trình bày: Việc các cơ quan tiến hành tố tụng xác định bà Lan H tham gia tố tụng trong vụ án là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng, mà bà Lan H cũng là người bị hại trong vụ án; bà H bị bà S và bị cáo V thực hiện hành vi gian dối, lừa đảo trong đề nghị chuyển tiền mua đất của Dự án; số tiền 12 tỷ đồng bà H nhận được là do bà S và bị cáo V chuyển trả khi bà H phát hiện ra việc bà S cũng như bị cáo V không có quyền gì đối với các lô đất của Dự án, yêu cầu trả tiền nếu không sẽ tố cáo hành vi lừa đảo; số tiền này là hoàn trả trên sự kiện, giao dịch có thật, không phải là được lợi không có căn cứ pháp luật theo quy định của Bộ luật dân sự, số tiền trên đã được bà H sử dụng, luân chuyển trước khi khởi tố vụ án 1 năm và trước khi Công an có quyết định tạm giữ gần 2 năm, nay không còn, không phải là vật chứng của vụ án, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bảo vệ quyền lợi của bà Phan Thị Lan H theo đúng quy định của pháp luật. Việc Công ty L đề nghị xem xét trách nhiệm của bà H về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” hay tội “Tiêu thụ hoặc chứa chấp tài sản do phạm tội mà có” là không có căn cứ pháp luật, đề nghị bác bỏ.

Từ các nội dung đã được xác định nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Về tội danh:

Tuyên bố Các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; diểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm a, g, m khoản 1 Điều 52;Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Thị V 20 (Hai mươi)năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt theo lệnh truy nã ngày 24/9/2020.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị Cúc H 14 (Mười bốn)năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 26/11/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 586, 587, 589 Bộ luật dân sự:

- Buộc bà Đoàn Thị S phải bồi hoàn (trả lại) cho Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản L số tiền 1.610.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo Đoàn Thị V phải bồi thường cho Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản VNam Holdingsố tiền là 11.200.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo Ngô Thị Cúc H phải bồi thường cho Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản VNam Holdingsố tiền là 3.394.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo Đoàn Thị V phải bồi thường cho ông Hồ T S số tiền là 1.000.000.000 đồng.

Tổng cộng, bà Đoàn Thị S phải bồi hoàn (trả lại) số tiền là 1.610.000.000 đồng; bị cáo V phải bồi thường tiếp số tiền còn lại là 12.200.000.000 đồng; bị cáo H phải bồi thường tiếp số tiền còn lại là 3.394.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản L và ông Hồ T Sinhcó đơn yêu cầu thi hành án mà các bị cáo Đoàn Thị V, bị cáo Ngô Thị Cúc H và bà Đoàn Thị S không thực hiện nghĩa vụ bồi thường (bồi hoàn) nêu trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp,xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Đoàn Thị V, Ngô Thị Cúc H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, người bị hại ông Hồ T S có đơn kháng cáo cho rằng bà Đoàn Thị S có hành vi đồng phạm trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Hồ T S, vụ án có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội của bà S, đồng thời yêu cầu bà S phải hoàn trả số tiền bị chiếm đoạt là 1.000.000.000 đồng cho ông Hồ T S; Bà Đoàn Thị S là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án kháng cáo cho rằng, tại Bản án sơ thẩm đã kiến nghị khởi tố bà S về vai trò đồng phạm với các bị cáo V, H là không đúng, bà S là người bị hại nhưng tại Bản án sơ thẩm buộc bà Đoàn Thị S trả số tiền 1.610.000.000 đồng cho Công ty L (nay là Công ty CPĐT và phân phối bất động sản Việt Nam Holding)và buộc bà S phải chịu 60.300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là không đúng; Công ty CPĐT Khu du lịch Phim trường V là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm, lý do kháng cáo cho rằng tại phần xử lý vật chứng của Bản án sơ thẩm đã quyết định giao trả 4.900.000.000 đồng cho Công ty L (Việt Nam Holding) là không đúng, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm trả lại số tiền nói trên cho Công ty Phim trường V.

Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về tố tụng, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáocác bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được xem xét, kết quả tranh tụng, quan điểm của Kiểm sát viên, luận cứ của các Luật sư, xem xét kháng cáo của bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, xét thấy:

[1]. Do có động cơ mục đích lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, ngày 19/6/2017 bị cáo Đoàn Thị V thành lập Công ty Cổ phần đầu tư và Xây dựng bất động sản T (gọi tắt là Công ty T) có vốn điều lệ là 90.000.000.000 đồng và đưa các người con của bị cáo là Dương Thành V và Dương Thị Đoan T làm thành viên Hội đồng quản trị, đưa bà Ngô Thị Cúc H làm Giám đốc công ty, thuê nhà tại địa chỉ số: 1318, đường N, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê để mở trụ sở của Công ty. Qua kết quả điều tra, tình hình tài chính tại thời điểm tháng 7/2017 số dư của Công ty T tại Ngân hàng chỉ có 14 triệu đồng, Ngân hàng X tại Anh không phát hành thư xác nhận ngày 18.7.2017 liên quan đến Hối phiếu số 3490581.

[2]. Do biết được tình hình khó khăn của Công ty Cổ phần đầu tư Khu du lịch Phim trường V ở Quảng Ngãi, bị cáo Đoàn Thị V lấy tên là Nguyễn Thị Trúc P, Việt kiều Mỹ cùng Ngô Thị Cúc H tìm cách liên hệ, tiếp xúc với ông Nguyễn Thanh P chủ đầu tư của dự án và bà Trần Thị Thuỷ T là kế toán để đặt vấn đề mua lại dự án của Công ty Phim trường V. Để chứng minh năng lực tài chính của Công ty T, bị cáo V đã dùng một số hối phiếu giả, cũng như cầm cố một số tài sản để vay nóng gửi vào ngân hàng, lấy xác nhận của Ngân hàng, nhưng ngay sau đó rút ra trong ngày để trả các khoản vay, còn những giấy tờ, tài liệu tiền gửi thì dùng để chứng minh về năng lực tài chính của Công ty, nhằm tạo sự tin tưởng của Công ty phim trường V. Ngày 16/8/2018, Đoàn Thị V, Ngô Thị Cúc H vào thành phố Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng giữa Công ty T với Công ty phim trường V và các Công ty cổ đông của Công ty phim trường V, sau khi các bên đã ký kết Hợp đồng nhưng chưa được công chứng (do Công ty T chưa chuyển tiền), tại thành phố Hồ Chí Minh bà Trần Thị Thuỷ T ở cùng phòng khách sạn với bị cáo V nhưng đi ra ngoài, bị cáo V đã lợi dụng sơ hở của bà T lấy trộm 168 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty phim trường V, sau khi bà T phát hiện yêu cầu trả lại thì bị cáo V trả lại 151 Giấy chứng nhận, còn giữ lại 17 Giấy chứng nhận.

Trong 17 Giấy chứng nhận nói trên, bị cáo V đưa cho bà Đoàn Thị S 15 giấy để đi huy động vốn, đồng thời bị cáo V và bà S trao đổi, hứa hẹn nếu bà S huy động được vốn thì bà S được hưởng tỉ lệ % trên số vốn huy động. Do bà S có mối quan hệ quen biết với bà Phan Thị Lan H, bà S đã dùng 15 Giấy chứng nhận của Công ty phim trường V đưa cho bà H để nhận10 tỷ đồng (cầm cố 10 Giấy, còn 05 Giấy nhờ bà H giữ hộ). Theo trình bày của bà Phan Thị Lan H trong giai đoạn sơ thẩm cũng như văn bản trình bày ý kiến tại phiên toà hôm nay, cho thấy trước đó bà H không quen biết gì bị cáo Đoàn Thị V(tức Nguyễn Thị Trúc P), do tin tưởng bà Đoàn Thị S, bà S đã đưa ra rất nhiều thông tin gian dối như bà P (tức bị cáo V) là cố vấn pháp luật của bà Giao (một đối tác của bà P ở Mỹ) và nhiều thông tin gian dối khác về giao dịch nhà đất, khả năng năng lực tài chính của bị cáo V cũng như của Công ty T, mà bà S biết rõ là không đúng thực tế, nhằm tạo sự tin tưởng cho bà H, nên bà H đã chuyển cho Công ty T 10 tỷ đồng, với nội dung “Chuyển khoản tiền mua đất”, theo yêu cầu của bà S tiền được chuyển vào số tài khỏan của ông Nguyễn Huy H, sau đó, ông H chuyển vào tài khoản của bà Dương Thị Đoan T, bà S yêu cầu bà T chuyển cho ông Nguyễn Đức C (chồngbà S)3 tỷ đồng và chuyển vào tài khoản của bà S 3.5 tỷ đồng, ông C sử dụng 3 tỷ đồng đi đổi ngoại tệ, bà S sử dụng 3,5 tỷ đồng, bà S khai việc vợ chồng bà S sử dụng số tiền trên theo chỉ đạo của bị cáo V, nhưng bị cáo V chỉ thừa nhận có sử dụng 1,5 tỷ đồng trong số tiền nhận từ bà H và có yêu cầu bà S đi giải quyết xử lý công việc của Công ty T chứ không thừa nhận việc bảo bà S dùng tiền trả nợ cho cá nhân bà S. Quá trình điều tra và điều tra bổ sung chưa làm rõ chi tiết số tiền 6,5 tỷ (trong 10 tỷ đồng nhận từ bà Phan Thị Lan H) mà vợ chồng bà S, ông C đã sử dụng, để xác định trách nhiệm hình sự, dân sự trong vụ án.

Sau một thời gian bà H kiểm tra phát hiện 15 Giấy chứng nhận do bà S đưa thuộc dự án đang treo, bà H doạ tố cáo thì vào ngày 5 và 6 tháng 11/2018, bà S chuyển trả cho bà H 12.000.000.000 đồng, từ tài khoản của bà S và nhận lại 15 Giấy chứng nhận. Trong 15 Giấy chứng nhận trên, có 05 Giấy bà S cất giữ cho đến ngày 13/12/2021 mới giao nộp theo yêu cầu của Công an.

[3]. Sau đó, vào tháng 9/2018 bị cáo V cùng bà Đoàn Thị S trực tiếp liên hệ giao dịch với bà Lê Thị Thuỷ đại diện của Công ty L về việc chuyển nhượng 182 lô đất của Công ty Phim trường V, thời điểm ký hợp đồng, bà S với tư cách là “Giám đốc tài chính” “Kế toán trưởng” của Công ty T, đã ký nháy vào tất cả các trang của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty T với Công ty L, ngoài ra bà S còn chủ động ghi số tài khoản của mình vào Hợp đồng và yêu cầu Công ty L chuyển tiền vào tài khoản của mình, theo lời khai của bà Lê Thị Thuỷ trong suốt giai đoạn sơ thẩm, chính từ lời nói, tư cách và hành vi của bà S đã tạo ra sự tin tưởng cho họ nên Công ty L đã chuyển 22.984.000.000 đồng/102.348.500.000 đồng theo giá trị Hợp đồng cho Công ty T, trong số tiền nêu trên Công ty L đã chuyển vào tài khoản của bà S 6.170.000.000 đồng, bà S đã chuyển qua tài khoản của cá nhân của mình tại các Ngân hàng Agribank và BIDV, sau đó rút và sử dụng toàn bộ số tiền này. Sau khi sự việc bị phát giác bà S mới đưa giấy tờ cho bị cáo H xác nhận số tiền mà bà S đã sử dụng để hợp lý hóa. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo H cho rằng bị cáo có ký xác nhận nhưng khoản tiền 4.960.000.000 đồng bị cáo không hề nhận, không hề sử dụng và không rõ bà S sử dụng vào việc gì, chỉ ký theo yêu cầu của bà S, bị cáo V cũng cho rằng không nhận số tiền 1.610.000.000 đồng từ bà S. Quá trình điều tra chưa làm rõ thực tế và chi tiết việc bà S sử dụng khoản tiền 6.170.000.000 đồng như thế nào. Hơn nữa, tại Bản án sơ thẩm đã buộc bà Đoàn Thị S phải bồi hoàn (trả lại) cho Công ty Cổ phần Đầu tư và phân phối bất động sản L miền Trung nay là Công ty cổ phần đầu tư và phân phối bất động sản L số tiền 1.610.000.000 đồng là mâu thuẫn với kết quả điều tra của vụ án.

[4]. Theo lời khai của các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và chính ngay lời khai của bà S tại các Biên bản phiên toà sơ thẩm ngày 19/10/2021 và ngày 27/4/2022 cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, đã thể hiện rõ vai trò chủ động, tích cực của bà Đoàn Thị S trong việc sử dụng tài sản bị chiếm đoạt của những người bị hại, với tư cách là “Giám đốc tài chính” “Kế toán trưởng” của Công ty T, bà S biết rõ tình hình tài chính của Công ty, các Giấy CNQSDĐ là của Công ty Phim trường ViNa đứng tên nhưng vẫn đưa ra nhiều thông tin gian dối, không đúng sự thật nhằm huy động vốn theo yêu cầu của bị cáo V, đưa các Giấy chứng nhận của Công ty Phim trường ViNa cầm cố cho bà H để “huy động vốn” nhằm hưởng lợi tỷ lệ %, khi bà H cũng như Công ty L chuyển tiền cho Công ty T thì bà S đã yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của vợ chồng bà S, sau khi đã sử dụng, bị phát hiện thì bà S lợi dụng việc thiếu hiểu biết của bị cáo H để hợp thức số tiền bà S đã sử dụng cũng như cho rằng bị cáo V đã nhận tiền, đã “chỉ đạo” nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh.

[5]. Đối với số tiền 01 tỷ đồng bị cáo V chiếm đoạt của ông Hồ T S cũng cho thấy bà S đã chủ động đưa ra các thông tin gian dối về khả năng tài chính của bị cáo V nhằm làm cho ông S tin tưởng giao tiền trực tiếp cho bà S, nhưng quá trình điều tra chưa làm rõ vai trò đồng phạm của bà S, ngoài ra, qua phiên tòa phúc thẩm thể hiện bà S nói với ông Hồ T S là vay mượn 270.000.000 đồng cho bị cáo V, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo V khai không biết khoảng tiền này, hiện bà S cũng chưa trả lại cho ông Hồ T S.

Với các tình tiết, diễn biến khách quan nêu trên có căn cứ buộc bà Đoàn Thị S phải biết rõ, nhận thức rõ về những hành vi trái pháp luật của mình, ngoài việc giúp sức cho các bị cáo V, H của bà Đoàn Thị S nhằm mục đích chia chác tỉ lệ tiền huy động theo hứa hẹn với bị cáo Đoàn Thị V, bà S còn có nhiều hành vi đưa ra nhiều thông tin gian dối và trực tiếp chiếm đoạt, sử dụng các khoản tiền đã chiếm đoạt của bà Phan Thị Lan H, của Công ty L mà chưa được điều tra làm rõ. Đơn kháng cáo của ông Hồ T S cho rằng vụ án có dấu hiệu bỏ lọt hành vi của đồng phạm, cũng như tại Bản án sơ thẩm đã kiến nghị về dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội đối với bà Đoàn Thị S là có cơ sở.

[6]. Việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà Đoàn Thị S liên quan đến hình phạt áp dụng đối với các bị cáo V và H, liên quan tiền chiếm đoạt và trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Hồ T S và Kiến nghị của Hội đồng xét xử sơ thẩm về việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà Đoàn Thị S.

[7]. Do nhận định huỷ Bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chưa xem xét các kháng cáo của các bị cáo V, bị cáo H, kháng cáo của Công ty phim trường V và của bà Đoàn Thị S. Các nội dung kháng cáo nêu trên, việc xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự sẽ được xem xét khi điều tra lại vụ án.

Với những nhận định nêu trên, có căn cứ xác định tại giai đoạn sơ thẩm đã bỏ lọt người phạm tội, Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng để điều tra lại vụ án theo quy định của pháp luật.

[8]. Hội đồng xét xử phúc thẩm tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị cáo Đoàn Thị V và Ngô Thị Cúc H cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà nẵng thụ lý lại vụ án.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 355, 358 Bộ luật tố tụng hình sự.

1/. Chấp nhận kháng cáo của ông Hồ T S và Kiến nghị của Hội đồng xét xử sơ thẩm.

2/. Huỷ toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 27/4/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng để tiến hành điều tra lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 274/2022/HS-PT

Số hiệu:274/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về