Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (lấy trộm phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19) số 302/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 302/2022/HS-PT NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2022/TLPT-HS ngày 10/5/2022 đối với bị cáo Trần Ngọc Anh Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 08/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện N,Thành phố H.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Ngọc Anh Đ, sinh năm 1991, tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 10/8 Ấp 3, xã Phú Xuân, huyện N, Thành phố H; Nghề nghiệp: Văn thư; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Trình độ học vấn: 12/12; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Minh Th (đã chết) và bà Trần Thị N ; Chồng: Đoàn Mạnh C ; Con: Có 01 người con, sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa: Bà Ngô Huỳnh Phương Th , Công ty Luật TNHH MTV Z, Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc Anh Đ là nhân viên bộ phận văn thư tại Bệnh viện huyện N có nhiệm vụ quản lý con dấu của Bệnh viện và đóng dấu. Giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Bệnh viện huyện N bố trí tiêm vắc xin ở nhiều điểm. Để thuận lợi cho việc cấp giấy chứng nhận cho người dân sau khi tiêm ngừa, Bác sỹ Nguyễn Tiến D - Phó giám đốc Bệnh viện huyện N đã chỉ đạo Phòng kế hoạch tổng hợp tiến hành in phôi giấy chứng nhận tiêm ngừa vắc xin Covid-19 và ký tên đóng dấu sẵn. Phần thông tin người tiêm thì để trống để chuyển đến các điểm tiêm ngừa cấp cho người dân sau khi tiêm vắc xin. Lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý, ngày 24/9/2021 Đ đã lấy trộm 17 phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19 từ Bệnh viện huyện N để sử dụng vào mục đích cá nhân. Theo đó, Đ đã tự mình điền thông tin cá nhân của 16 người khác vào 16 giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19 và cung cấp cho 16 người này để họ đi đăng ký tiêm vắc xin Covid-19, cụ thể:

- Nhóm 01 gồm: Đặng T , Văn Thị Tường V , Phan Xuân K và Huỳnh TR . Nhóm này thông qua Ngô Thị Thanh H và Đặng Thị M liên hệ nhờ Đ làm giấy xác nhận để tiêm mũi 02 vắc xin Covid-19 (tránh tiêm vắc xin Vero Cell). Đ đồng ý. Khoảng 22h ngày 24/9/2021, M đã chuyển 2.800.000đ vào số tài khoản 31910000271729 của Đ với mục đích cảm ơn Đ. Đến sáng ngày 25/9/2021, T , V , K và Tr đi đến nhà Đ tại số 10/8 ấp 3, xã Phú Xuân, huyện N. Tại đây, Đ lấy 04 phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19 (Mũi 1), tự mình điền thông tin của 04 người trên vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 và hướng dẫn đến Trường Tiểu học B, ấp 2, xã Phú Xuân, huyện N để tiêm mũi 2 vắc xin Covid-19.

- Nhóm 2 gồm: Trần Thị B (dì ruột của Đ), Nguyễn Hoàng D (con ruột của Trần Thị B ) và Võ Thị Phương Tr (vợ của D ). Ba người này đã tiêm vắc xin Astra Zeneca mũi 01 vào ngày 05/8/2021 tại Trung tâm văn hoá Quận 7, thành phố H và đã được cấp giấy xác nhận. Do đăng ký tiêm mũi 2 tại Quận 7 đã lâu nhưng chưa được tiêm nên 03 người này nhờ Đ giúp đăng ký tiêm mũi 2 (trừ vắc xin Vero Cell). Tại nhà Đ vào sáng ngày 25/9/2021, Đ lấy 03 phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19, tự mình điền thông tin của B , D , Tr vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 (mũi 01 ngày 05/8/2021, loại vắc xin: Moderna) và hướng dẫn đến Trường Tiểu học B để được tiêm mũi 2 vắc xin Covid-19. Do là người thân trong gia đình nên Đ không nhận tiền.

- Nhóm 3 gồm: Trần Văn Cát L , Nguyễn Ngọc Thảo Đ , Nguyễn Hải A, Trần Thị H và Nguyễn Hữu L . Do chưa tiêm vắc xin ngừa Covid-19 nên nhóm này thông qua Huỳnh Trọng  liên hệ nhờ Đ đăng ký tiêm vắc xin Covid-19. Sáng ngày 25/9/2021,  cung cấp cho Đ thông tin cá nhân của 05 người trên để Đ điền thông tin của 05 người này vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 và hướng dẫn sử dụng các giấy này để tiêm vắc xin Covid-19 mũi 01 (trên danh nghĩa tiêm mũi 02) tại Trường Tiểu học B nhằm tránh phải tiêm vắc xin Vero Cell. Do có mối quan hệ từ trước với  nên Đ không nhận lợi ích vật chất gì từ nhóm người này.

- Nhóm 4 gồm: Đỗ Văn Q và Nguyễn Ngọc B. Do chưa tiêm vắc xin ngừa Covid-19 nên nhóm này thông qua Đỗ Thị Ngọc Ch và Phạm Thị Kim Th liên hệ nhờ Đ giúp tiêm vắc xin Covid-19. Tại nhà Đ vào sáng ngày 25/9/2021, Đ lấy 02 giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19, tự mình điền thông tin của 02 người trên vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 (mũi 01 ngày 05/8/2021, loại vắc xin: Moderna) và hướng dẫn đến Trường Tiểu học B để được tiêm vắc xin Covid-19 mũi 01 (trên danh nghĩa tiêm mũi 02). Ch hứa gửi chi phí cho Đ 1.500.000đ/02 liều/người, nhưng chưa giao tiền.

- Nhóm 5 là Phạm Thị Hồng D . Do chưa tiêm vắc xin ngừa Covid-19 nên D thông qua Lê Thị T (người thân của Đ) liên hệ nhờ Đ giúp tiêm vắc xin Covid-19 (tránh tiêm vắc xin Viro Cell). Tại nhà Đ vào sáng ngày 25/9/2021, Đ lấy 01 giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19, tự mình điền thông tin của D vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 và hướng dẫn đến Trường Tiểu học B để được tiêm vắc xin Covid-19 mũi 01 (trên danh nghĩa tiêm mũi 02). Diễm hứa sau khi được tiêm vắc xin Covid-19 sẽ bồi dưỡng vật chất cho Đ, nhưng chưa xác định cụ thể.

- Nhóm 6 là Nguyễn Đình Ng , do chưa được tiêm vắc xin Covid-19 nên khi biết tại Trường Tiểu học B tổ chức tiêm vắc xin Covid-19 cho người có bệnh nền thì Ng đã liên hệ trực tiếp với Đ để nhờ giúp đăng ký tiêm vắc xin Covid-19. Đ đồng ý thực hiện với chi phí 1.500.000đ/02mũi. Sáng ngày 25/9/2021, Ng đến nhà Đ cung cấp thông tin cá nhân để Đ điền thông tin của Ng vào phần thông tin người được tiêm vắc xin Covid-19 (mũi 01 ngày 05/8/2021, loại vắc xin: Moderna). Tuy nhiên, do viết sai nên Đ đã xé bỏ và viết lại cho Ng giấy xác nhận đã tiêm vác xin Covid-19 khác. Sau khi lấy giấy xác nhận, Ng đưa cho Đ 1.500.000đ. Sau đó, Ng dùng giấy xác nhận này đi đăng ký tiêm vắc xin mũi 01 (trên danh nghĩa tiêm mũi 2) tại Trường Tiểu học B, khi đang chờ đến lượt tiêm thì bị phát hiện. Vụ việc sau đó được chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N thụ lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định số 5247/KLGĐ-TT ngày 06/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H đã kết luận:

1. Hình dấu tròn có nội dung “SỞ Y TẾ THÀNH PHỐ H BỆNH VIỆN HUYỆN N” cần giám định trên các tài liệu ký hiệu từ A1 đến A16 (đã nêu ở mục II.1) so với hình dấu tròn có cùng nội dung dùng làm mẫu so sánh trên các tài liệu ký hiệu từ M1 đến M7, từ M12 đến M14 (đã nêu ở mục II.2) do cùng một con dấu đóng ra.

2. Chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A4, A6, A7, A9 đến A12, A14 đến A16 (đã nêu ở mục II.1) so với chữ viết của Trần Ngọc Anh Đ trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M8 đến M11 (đã nêu ở mục II.2) do cùng một người viết ra.

3. Chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A5, A8, A13 - trừ chữ viết tại ô ghi “Mũi 2, Ngày, Loại vắc xin” trên ba tài liệu trên (đã nêu ở mục II.1) so với chữ viết của Trần Ngọc Anh Đ trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M8 đến M11 (đã nêu ở mục II.2) do cùng một người viết ra.

4. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký đứng tên “BS. Nguyễn Tiến D” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A16 (đã nêu ở mục II.1) so với chữ ký của Bác sỹ Nguyễn Tiến D trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M6, từ M12 đến M15 (đã nêu ở mục II.2) có phải do cùng một người ký ra hay không.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Trần Ngọc Anh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 08/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện N, Thành phố H, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo: Trần Ngọc Anh Đ phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Trần Ngọc Anh Đ 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và thời hạn kháng cáo Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/4/2022 bị cáo Trần Ngọc Anh Đ kháng cáo kêu oan. Ngày 06/7/2022 bị cáo Trần Ngọc Anh Đ làm đơn thay đổi nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc Anh Đ khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo kêu oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa phúc thẩm: Cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, mức hình phạt cấp sơ thẩm xét xử là thỏa đáng; Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo bổ sung thêm tài liệu chứng cứ gì mới gồm: nộp tiền thu lợi bất chính, con bị cáo bệnh, mẹ bị cáo bệnh, động cơ phạm tội nhằm giúp người quen và người thân, tác động xấu của hành vi đến xã hội là không lớn. Bị cáo hội đủ điều kiện được hưởng án treo nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.

Luật sư trình bày: thống nhất về tội danh nhưng khung hình phạt đề nghị xem xét lại khung hình phạt đối với bị cáo, tham khảo một số bản án đã xét xử hành vi tương tự thì 16 tài liệu này là cùng một phôi nên chỉ xác định là 1 tài liệu được làm giả. Bị cáo làm việc tích cực trong giai đoạn chống dịch, có thành tích tốt, là lao động chính trong gia đình nên đề nghị xem xét lời đề nghị của Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng án treo.

Bị cáo thống nhất với quan điểm bào chữa của Luật sư, không bào chữa bổ sung.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và và tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc Anh Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 24/9/2021, Trần Ngọc Anh Đ đã lấy trộm 17 phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19 (trên 17 giấy này đã có chữ ký của BS. Nguyễn Tiến D và đóng dấu của Bệnh viện huyện N nhưng thông tin người được tiêm vắc xin để trống) từ Bệnh viện huyện N mang về nhà. Đến ngày 25/9/2021, Đ đã tự mình điền thông tin cá nhân của Đặng T , Văn Thị Tường V , Phan Xuân K , Huỳnh Tr , Trần Thị B , Nguyễn Hoàng D g, Võ Thị Phương Tr , Trần Văn Cát L Nguyễn Ngọc Thảo Đ , Nguyễn Hải A, Trần Thị H , Nguyễn Hữu L , Đỗ Văn Q , Nguyễn Ngọc B, Phạm Thị Hồng D , Nguyễn Đình Ng vào phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19 nêu trên để những người này đi đăng ký tiêm vắc xin Covid-19 tại Trường tiểu học B thì bị phát hiện.

Hành vi của bị cáo Trần Ngọc Anh Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Án sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 08/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện N,Thành phố H đã xét xử bị cáo Đ về tội danh điều luật như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Và khi lượng hình cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nhưng chưa áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội hai lần trở lên” là có thiếu sót. Tuy nhiên mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Cấp phúc thẩm áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên không tăng nặng hình phạt đối với bị cáo mà giữ nguyên mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên. Các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS mà Viện kiểm sát và Luật sư nêu ra là chính xác nhưng như đã nhận định ở trên, phạm tội hai lần trở lên là không thuộc trường hợp cho hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Do đó, có không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như lời đề nghị của Viện kiểm sát và Luật sư; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Anh Đ; Giữ nguyên bản án sơ thẩm ;

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Trần Ngọc Anh Đ 03 (Ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (lấy trộm phôi giấy xác nhận đã tiêm vắc xin Covid-19) số 302/2022/HS-PT

Số hiệu:302/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về