TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 161/2022/HS-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 146/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Thạch Út H, sinh năm: 1999, tại tỉnh Sóc Trăng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp TB, xã Tân H, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Dân tộc: Khơme. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Thạch B và bà Sơn Thị Sa M; chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự; nhân thân: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 03 tháng 5 năm 2022 và tạm giam cho đến nay; có mặt.
Bị hại: Anh Lê Đông C, sinh năm 1994; địa chỉ thường trú: Ấp M, xã V, huyện A, tỉnh Kiêng Giang; vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lâm Thị T, sinh năm 1974;
địa chỉ thường trú: Ấp M, xã V, huyện A, tỉnh Kiêng Giang; vắng mặt.
Người làm chứng: 1. Anh Thạch Vĩnh L; vắng mặt.
2. Anh Lê Hoàng A; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và biễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 24/4/2019, anh Lê Đông C điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97 đi đến phòng trọ, địa chỉ Khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương của bạn là anh Thạch Vĩnh L để uống rượu cùng với anh L và bạn anh L là anh Lê Hoàng A và Thạch Út H. Trong lúc cả nhóm đang uống rượu thì H hỏi mượn xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97 của anh C để đi mua rượu thì anh C đồng ý. Trên đường đi, H nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của anh C nên H điều khiển xe mô tô trên đi đến tiệm cầm đồ (hiện chưa xác định được tên hiệu và địa chỉ cụ thể) tại thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để cầm xe mô tô trên lấy số tiền 7.000.000 đồng tiêu xài cá nhân và bỏ trốn. Đến ngày 25/4/2019, do anh C không thấy H quay lại để trả xe mô tô biển số 61M1-309.97 nên anh C đến Công an phường Phú Tân để trình báo sự việc.
Ngày 10/6/2019, Công an phường Phú Tân chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.
Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 226/KLTS-TTHS ngày 19/7/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97, số khung 0610JY670057, số máy G3D4E697583 trị giá 45.000.000 (bốn mươi lăm triệu) đồng.
Đến ngày 03/5/2022, Thạch Út H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An bắt truy nã theo Quyết định truy nã số 14 ngày 06/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một và giao đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để phục hồi điều tra và xử lý theo quy định.
Đối với 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97, số khung 0610JY670057, số máy G3D4E697583, quá trình điều tra xác định do mẹ của anh Lê Đông C là bà Lâm Thị T đứng tên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Qúa trình làm việc, anh C và bà T khai nhận bà T giao xe mô tô cho anh C sử dụng để làm phương tiện đi lại. Đồng thời, do Thạch Út H khai nhận H không nhớ rõ tên hiệu và địa chỉ cụ thể của tiệm cầm đồ mà H đã cầm xe mô tô của anh C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chưa thu hồi được xe mô tô trên. Hiện nay anh C yêu cầu Thạch Út H bồi thường giá trị xe mà bị chiếm đoạt là 52.000.000 đồng.
Cáo trạng số 151/CT-VKSTDM-HS ngày 15/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Thạch Út H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị xe mà bị chiếm đoạt là 52.000.000 đồng, bị cáo đồng ý nên đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Thạch Út H phải bồi thường cho bị hại Lê Đông C số tiền 52.000.000 đồng (năm mươi hai triệu đồng) là giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được.
Về biện pháp tư pháp: Không có.
Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với Viện Kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt đã đề nghị.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/4/2019, tại địa chỉ khu phố 2, phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Thạch Út H sau khi mượn được xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97, số khung 0610JY670057, số máy G3D4E697583 trị giá 45.000.000 đồng của anh Lê Đông C thì H đã chiếm đoạt xe mô tô trên để đem cầm cố lấy tiền tiêu xài và bỏ trốn. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với i cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh- đen, biển số 68M1-309.97, số khung 0610JY670057, số máy G3D4E697583, bị hại Lê Đông C yêu cầu bị cáo Thạch Út H bồi thường giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt không thu hồi được là 52.000.000 đồng, bị cáo đồng ý nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo H bồi thường số tiền 52.000.000 đồng cho bị hại Lê Đông C theo quy định tại các điều 584, 585 và 589 của Bộ luật Dân sự.
[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.
[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 106, 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 46, 48 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các điều 584, 585 và 589 của Bộ luật Dân sự.
Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Thạch Út H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Thạch Út H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03 tháng 5 năm 2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Thạch Út H phải bồi thường cho bị hại Lê Đông C số tiền 52.000.000 đồng (năm mươi hai triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì còn phải trả tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.
3. Về biện pháp tư pháp: Không có 4. Về án phí: Buộc bị cáo Thạch Út H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.600.000 đồng (hai triệu sáu trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 161/2022/HS-ST
Số hiệu: | 161/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về