Bản án về tội giết người số 91/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 91/2021/HS-PT NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 523/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Trương Tấn T và bị cáo Lê Quang Th;

Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 332/2020/HS-ST ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 777/2020/QĐXXPT-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020.

- Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Trương Tấn T (tên gọi khác: Ng và Trương Cẩm T); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thương trú: ấp Phú Th, xã Phú H, huyện An Ph, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Nhị Đ và bà Trần Liên V; Hoàn cảnh gia đình : Có vợ là bà La Thị Thanh H và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất 2015); Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 24/4/2008, Tòa án nhân dân quận Tân B xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật Tài sản” theo Bản án số: 88/2008/HSST.

- Ngày 20/8/2010, Tòa án nhân dân quận Bình T xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật Tài sản” theo Bản án số 241/2010/HSST.

Nhân thân:

- Từ năm 2004 đến 2006 phải đi Trường giáo dưỡng số 4 tại Long Th, tỉnh Đồng Nai vì có hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị tam giư, tạm giam ngày: 30/9/2018 (có mặt).

2. Lê Quang Th; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 39/35/X Phú Th, Phường M, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Nhà không số, tổ 7, ấp X, xã Vĩnh L A, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tô Văn T và bà Lê Thị Kim Ph; Hoàn canh gia đinh : Có vợ là bà Dương Thị Bích Th; Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 09/02/2015, Tòa án nhân dân quận Bình T xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật Tài sản” theo Bản án số: 32/2015/HSST.

Nhân thân:

- Ngày 24/7/2012, Tòa án nhân dân quận Bình T xử phạt 01 năm 9 tháng tù về tội “Cướp giật Tài sản” theo Bản án số: 207/2012/HSST.

Bị tam giư, tạm giam ngày: 30/9/2018 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại:

+ Ông Nguyễn Văn C; Sinh năm: 1977

+ Bà Nguyễn Thị A; Sinh năm: 1985 Cùng thường trú: 30/45B Đỗ Nh, phường Sơn K, quận Tân Ph, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền của ông C, bà A: Ông Trần Văn Đ; Sinh năm: 1982 Thường trú: 119B Tây S, phường Tân Qu, quận Tân Ph, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Hồng Minh T; Sinh năm: 1970 Thường trú: F1/10H5, ấp 6C, xã Vĩnh L A, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Tấn T: Luật sư Trương Thị Thu H thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

(Trong vụ án này có bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo; không liên quan đến kháng nghị nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ, ngày 13/9/2018, Lê Quang Th, Trương Tấn T, Phan Tuấn Ph và Nguyễn Công H cùng nhau uống rượu tại nhà của T ở ấp 5, xã Vĩnh L B, huyện Bình Ch. Đến khoảng 19 giờ, Th rủ cả nhóm đi cướp giật Tài sản thì cả nhóm đồng ý.

Cả nhóm thống nhất Th sẽ sử dụng xe mô tô chở T ngồi phía sau trực tiếp giật Tài sản. H và Ph mỗi người đi một xe mô tô chạy theo phía sau để làm nhiệm vụ ngăn cản những người truy đuổi khi giật được Tài sản. Để thực hiện tội phạm, Th chạy xe mô tô hiệu Vision màu đen về nhà Th để đổi lấy xe mô tô hiệu Exciter màu đỏ đen, biển số 59F1-xxxxx để chạy cho nhanh khi đi cướp giật và tẩu thoát rồi quay lại nhà T. T lấy một con dao bấm, cán màu đồng cất vào túi quần sau. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô hiệu Exciter chở T ngồi phía sau, Ph điều khiển xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, biển số 54X2-xxxx và H điều khiển xe mô tô hiệu Vario màu đen biển số 59G1-xxxxx chạy lòng vòng trên các tuyến đường tìm người có Tài sản sơ hở để cướp giật.

Cả nhóm đi trên đường Lê Trọng T hướng từ ngã tư Gò M về đường Tân K Tân Qu, quận Tân Ph, Th và T phát hiện chị Nguyễn Thị A đang đi bộ trên vỉa hè hướng từ cửa hàng đồ gỗ “Minh Kh” (địa chỉ số 465 Lê Trọng T, phường Sơn K, quận Tân Ph, Thành phố Hồ Chí Minh) đi ra xe ô tô đang đậu dưới lề đường, trên vai trái chị A có đeo 01 túi xách (bên trong có 86.575.000 đồng và các giấy tờ cá nhân, thẻ ATM các ngân hàng), thì cả nhóm thống nhất cùng nhau cướp giật túi xách của chị A, Th điều khiển xe chở T quay ngược lại, đi ngược chiều trên đường Lê Trọng T, Ph và H cũng điều khiển xe quay ngược lại theo sau. Th cho xe chạy lên vỉa hè đường Lê Trọng T áp sát phía sau lưng bên trái chị A để T dùng tay phải giật lấy túi xách của chị A, chị A giằng co với T làm túi xách rớt xuống đường, chị A bị ngã và tri hô. Anh Nguyễn Văn C (chồng chị A) đang đứng bên cửa lái xe ô tô liền chạy đến ôm T lại từ phía sau, làm Th và xe bị mất thăng bằng ngã xuống đường. Th liền dựng xe lên để chạy tẩu thoát, còn T bị anh C khống chế. Trong lúc giằng co với anh C, T lấy trong túi quần sau con dao bấm, cán màu đồng cầm trên tay phải đâm 01 nhát trúng vào phần bụng phía bên trái, 01 nhát ở phía nửa vai trái (gần nách) và 01 nhát ở cánh tay trái của anh C. Bị đâm nên anh C buông ra thì T lên xe Exciter để Th điều khiển chạy thoát, Ph và H đậu xe ở gần đó cũng chạy tẩu thoát theo. Khi chạy gần đến đường Bình L, T kêu Th ghé vào tiệm thuốc tây để T mua bông gòn, thuốc rửa vết thương do T bị thương ở đầu gối (do ngã xuống đường khi cướp giật). Tại đây, T có nói cho cả nhóm biết trong lúc giằng co với anh C, T có dùng dao đâm anh C để chạy thoát. Sau đó, cả nhóm chạy về nhà của H ở phường Bình Hưng H A, quận Bình T để uống rượu tiếp. Tại đây, T đem con dao bấm (dùng đâm anh C) cất giấu ở cái rổ để ở trên kệ gần cửa ra vào nhà của H. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì T, Th, Ph đi về nhà.

Đến ngày 28/9/2018, qua truy xét Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Ph đã đưa T, Th và Ph về cơ quan điều tra làm rõ. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lê Quang Th, Trương Tấn T và Phan Tuấn Ph đã khai nhận hành vi “Cướp giật Tài sản” của mình như nội dung nêu trên. Trong quá trình điều tra Ph đã bỏ trốn cùng với H trước đó.

Tại Bản kết luận giám định số: 162/TgT.19 ngày 05/3/2019 của Trung tâm pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích anh Nguyễn Văn C như sau:

“- Một sẹo tại nách trái kích thước 3x(0,2-0,4) cm, tình trạng ổn định, có tỉ lệ 02%.

- Một sẹo tại mặt trước, trong 1/3 trên cánh tay trái kích thước 7x(0,1- 0,6) cm, có tỉ lệ 03%.

- Vết thương thấu vùng bụng trái gây thủng da, thủng ruột non, thủng mạc treo, chảy máu ổ bụng đã được điều trị phẫu thuật mở bụng đường giữa khâu cầm máu động mạch mạc treo, cắt đoạn ruột non dài 30cm, nối ruột bằng Stapker, đặt dẫn lưu Douglas, hiện còn:

+ Một sẹo đâm kích thước 5 x 0,15cm.

+ Một sẹo mổ kích thước 18,5 x 0,6cm.

+ Một sẹo dẫn lưu tại hạ sườn phải kích thước 1,5 x 0,2cm. Có tỉ lệ 61%.

Thương tích do vật sắc nhọn tác động gây ra.

Cộng lùi các tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 62,92%, làm tròn số 63%.

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 63%”.

* Đối với chị Nguyễn Thị A: 01 (một) vết thương rách da phía ngoài cánh tay trái. Qua làm việc, chị A từ chối giám định tỉ lệ thương tật.

Ngày 29/01/2019, Trung tâm pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh có bản kết luận giám định pháp y về ADN đối với con dao bấm, cán màu đồng (thu giữ của bà Bùi Thị Th) là hung khí mà Trương Tấn T khai nhận đã dùng đâm gây thương tích cho anh Nguyễn Văn C, kết luận:

“- ADN của Trương Tấn T có hiện diện trong: dấu vết trên cán của con dao bấm.

- ADN của Nguyễn Văn C có hiện diện trong: dấu vết trên lưỡi của con dao bấm, dấu vết trên cán của con dao bấm”.

Tại Bản kết luận giám định pháp y (giám định bổ sung) số: 162.B/TgT.19 ngày 16/8/2019 của Trung tâm pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“- Con dao bấm, cán màu đồng mà Trương Tấn T khai nhận đã dùng đâm gây thương tích cho anh Nguyễn Văn C gây ra được các thương tích nêu trên của anh C.

- Vết thương thấu bụng của anh C rất nguy hiểm đến tính mạng, hai vết thương còn lại của anh C thì không nguy hiểm”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 332/2020/HS-ST ngày 25 tháng 8 năm 2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Căn cứ điêm e, p khoản 1 Điều 123; điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt bị cáo Trương Tấn T: 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật Tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho 02 tội là 17 (mười bảy) năm tù. Thơi han tu tinh tư ngay: 30/9/2018.

- Căn cứ điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt bị cáo Lê Quang Th: 05 (năm) năm tù về tội “Cướp giật Tài sản”.

Thời hạn tính từ ngày: 30/9/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 24/9/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Trương Tấn T về tội “Giết người” và “Cướp giật Tài sản”; tăng hình phạt đối đối với bị cáo Lê Quang Th về tội “Cướp giật Tài sản”.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của 02 bị cáo, bị cáo Lê Quang Th là người rủ bị cáo T đi cướp giật Tài sản. Bị cáo T là người trực tiếp thực hiện hành vi giật túi xách, sau đó dùng dao đâm anh Cường 03 nhát gây thương tích 63%, hành vi của bị cáo T là rất nguy hiểm. Cả 02 bị cáo đều bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Giết người” và “Cướp giật Tài sản”. Tuy nhiên thấy rằng các bị cáo đều bị xử phạt 02 lần về hành vi cướp giật Tài sản, với 03 tình tiết tăng nặng theo khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự, tái phạm nguy hiểm, về nhân thân rất xấu, mặc dù nhiều lần phạm tội nhưng không hoàn lương mà hành vi ngày càng táo bạo hơn. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo T tội “Giết người” với mức hình phạt 13 năm tù là nhẹ, không tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Hành vi đâm anh C 03 nhát, anh C không chết là do được cứu chữa kịp thời. Đối với tội “Cướp giật Tài sản” thì trong vụ án này mặc dù bị cáo Th rủ rê nhưng người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật là bị cáo T, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt 04 năm tù đối với bị cáo T là không tương xứng, không phân hóa, mức án trên không phù hợp, án sơ thẩm đánh giá chưa đầy đủ tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Mức hình phạt là nhẹ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt cụ thể đối với bị cáo T đề nghị mức hình phạt từ 15 đến 16 năm tù đối với tội “Giết người”, từ 06 đến 07 năm tù đối với tội “Cướp giật Tài sản”. Tổng hợp khung hình phạt từ 21 đến 23 năm tù. Đối với bị cáo Th đề nghị áp dụng mức hình phạt từ 06 đến 07 năm tù về tội “Cướp giật Tài sản”.

Bị cáo Trương Tấn T trình bày: Lúc bị cáo T gây án bị cáo không đâm anh C 03 nhát chỉ đâm 01 nhát, còn vết đâm sau lưng bị cáo T không biết ai đâm, bị cáo không giật được giỏ xách của chị A. Trong lần phạm tội trước bị cáo đã đóng án phí trên trại tạm giam nhưng chưa được xóa án tích, trong quá trình chấp hành án, bị cáo được giảm án về trước thời hạn. Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo để sớm về phụ giúp vợ lo cho con bị cáo.

Bị cáo Lê Quang Th trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên mức án như Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên để bị cáo sớm về lo cho cha mẹ già.

Luật sư Trương Thị Thu H trình bày: Bị cáo Trương Tấn T cũng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo xác định đâm anh C 01 nhát có ý định tẩu thoát chứ không cố ý giết bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tội danh và hình phạt đối với bị cáo T là đã xem xét tất cả tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo. Mức hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp đồng thời mang tính chất nhân văn. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, T liệu trong hồ sơ vụ án đã đươc thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên, của Luật sư của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Tấn T và bị cáo Lê Quang Th đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại Tòa án cấp sơ thẩm và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Từ đó đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 18 giờ, ngày 13/9/2018, tại trước nhà số 465 Lê Trọng T, phường Sơn K, quận Tân Ph, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Quang Th, Trương Tấn T, Phan Tuấn Ph và Nguyễn Công H đã thực hiện hành vi chiếm đoạt Tài sản của bị hại Nguyễn Thị A nhằm nhanh chóng tẩu thoát.

Trong vụ án này, sau khi xét xử sơ thẩm có 02 bị cáo bị kháng nghị là bị cáo Lê Quang Th và bị cáo Trương Tấn T. Hội đồng xét xử xét thấy, để thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Lê Quang Th điều khiển xe mô tô áp sát từ phía sau lưng chị Nguyễn Thị A để cho bị cáo Trương Tấn T dùng tay phải giật túi xách đang đeo trên vai trái của chị A thì bị chị A giằng lại túi xách làm Th, T té ngã khỏi xe. Lúc này, anh Nguyễn Văn C (chồng chị A) chạy đến giữ T thì T dùng dao bấm đâm 03 nhát vào người anh C (01 nhát trúng vào phần bụng phía trái của anh C, 01 nhát ở phía nửa vai trái (gần nách) và 01 nhát ở cánh tay trái), rồi T lên xe cho Th chở và cùng Ph, H chạy thoát. Kết luận giám định thương tích do T gây ra cho anh Nguyễn Văn C là 63%. Vết thương bị cáo đâm anh C là rất nguy hiểm, vì có 02 vết thương ở vị trí trọng yếu trên cơ thể có nhiều khả năng dẫn tới tử vong. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trương Tấn T phạm tội: “Giết người” và tội “Cướp giật Tài sản”; bị cáo Lê Quang Th phạm tội “Cướp giật Tài sản” là có căn cứ.

[2.2] Xét kháng nghị đối với bị cáo Trương Tấn T về tội “Giết người”:

Bị cáo Trương Tấn T liền trước đó đã thực hiện hành vi cướp giật Tài sản của chị A (là vợ của bị hại). Ngay sau đó bị anh C (chồng chị A) chạy đến ngăn cản thì bị cáo T đã dùng dao đâm liên tiếp 03 nhát vào người anh C, trong đó có 02 vết đâm vào vị trí trọng yếu trên cơ thể anh C, có nhiều khả năng gây tử vong. Anh C không chết là được đưa đi cấp cứu kịp thời. Mặt khác, bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do lỗi cố ý chưa được xoá án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi đâm anh C nêu trên nên thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Tuy nhiên, xét về hậu quả thì anh C không chết, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo 13 năm tù về tội “Giết người” là có căn cứ.

[2.3] Xét kháng nghị về tội “Cướp giật Tài sản” đối với bị cáo Trương Tấn T và bị cáo Lê Quang Th:

Bị cáo Lê Quang Th là người khởi xướng, rủ bị cáo T đi cướp Tài sản. Sau đó bị cáo Th về nhà đổi xe mô tô phân khối lớn để chạy cho nhanh, còn bị cáo T đem theo bộ dao bấm. Bị cáo T là người trực tiếp thực hiện hành vi giật túi xách của bị hại là chị Nguyễn Thị A và dùng dao đâm anh C. Về nhân thân, trong vụ án cả 02 bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo T 01 lần bị Toà án nhân dân quận Bình T và 01 lần bị Tòa án nhân dân quận Tân B xử phạt về tội “Cướp giật Tài sản”. Bị cáo Lê Quang Th chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này các bị cáo đều thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Các bị cáo dùng xe phân khối lớn để thực hiện hành vi phạm tội (dùng thủ đoạn nguy hiểm) để cướp giật Tài sản có giá trị lớn (trên 80 triệu đồng). Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm c, d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với 02 bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, mức án mà Toà án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo T 04 năm tù và bị cáo Th 05 năm tù về tội “Cướp giật Tài sản” là nhẹ. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt cao hơn nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục trong công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tăng mức hình phạt đối với 02 bị cáo về tội “Cướp giật Tài sản”.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa một phần Bản án sơ thẩm đối với nội dung bị kháng nghị.

2. Căn cứ điêm e, p khoản 1 Điều 123; điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Tấn T 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”; 05 (năm) năm tù về tội “Cướp giật Tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho 02 tội là 18 (mười tám) năm tù. Thơi han tu tính từ ngày 30/9/2018.

3. Căn cứ điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Quang Th 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật Tài sản”. Thơi hạn tù tính từ ngày 30/9/2018.

4. Tiếp tục tạm giam bị cáo Trương Tấn T và bị cáo Lê Quang Th để bảo đảm thi hành án.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 91/2021/HS-PT

Số hiệu:91/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về