Bản án về tội giết người số 44/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2022/HS-PT NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 452/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Văn C, Hà Lạm S do có kháng cáo của đại diện bị hại, bị cáo Hà Lạm S đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Văn C, sinh năm 1994 tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp T, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Phạm Thị B; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: ngày 14/8/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ra Quyết định số 59/QĐ-UBND về việc đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ”, chấp hành xong ngày 16/8/2015 theo Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc số 366/GCN-CSGDBB ngày 16/8/2015 của Cơ sở giáo dục bắt buộc Cồn Cát; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 cho đến nay (có mặt).

2. Hà Lạm S, sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Hoa; tôn giáo: không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà A S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 cho đến nay (có mặt).

Người bào chữa của bị cáo Phạm Văn C, Hà Lạm S: Ông Đỗ Hải Bình – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị hại: Ông Lê Văn N, sinh năm 1996; hộ khẩu thường trú: ấp M, xã M huyện C, tỉnh An Giang (đã chết).

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Lê Văn B, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Bích Loan, sinh năm 1972; nơi cư trú: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (là cha mẹ của bị hại, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 02/8/2020, Phạm Văn C cùng với Nguyễn Duy K (sinh năm 1986, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng) đến nhà trọ Thái Tuấn thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tìm bạn tên Nguyễn Ngọc Đ (sinh năm 1998, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng) để chơi. Khi Khánh chở C đi vào dãy trọ Thái Tuấn gặp Phạm Thanh K (thường gọi là Tư K, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Kinh Huế, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau) và Đặng Vũ L (sinh năm 1998, hộ khẩu thường trú: ấp Phước Hòa A, thị trấn Cù Lao Dung, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng); Phan Chí Đại (sinh năm 1991; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Bưng Ràm, xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An) đang ngồi uống rượu ở trước dãy trọ. Lúc này, K hỏi C đi đâu, tìm ai thì C không trả lời nên K đi đến vị trí C đậu xe và dùng tay tát 02 cái vào mặt của C. Khi thấy C bị đánh thì Khánh chở C đi về nhưng K không đồng ý mà yêu cầu Khánh và C vào bàn uống rượu chung. Trong lúc uống rượu, Đặng Thành T (sinh năm 1993; nơi đăng ký thường trú: ấp Tô Phước, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) và Hà Lạm S cũng đến và uống rượu chung với nhóm của K. Trong lúc nhậu, do có uống rượu trước đó nên C say và có những lời lẽ nói với K không rõ ràng. Từ đó, K bực tức nên tiếp tục dùng tay tát vào mặt C và dùng chân đạp C té xuống ghế. Khi thấy xảy ra đánh nhau, Đại cùng với mọi người can ra và lên tiếng yêu cầu Đặng Thành T chở C về để không bị đánh nữa nên Tới lấy xe chở C về đến khu vực cây xăng Huỳnh Gia để C tự đi bộ về nhà. Do bị đánh nên C tức giận và điện thoại cho Hà Lạm S hỏi có đồ không (tức là dao, hung khí, dụng cụ để đánh nhau), S trả lời “Có”, đồng thời C kêu S chạy xe ra cây xăng Huỳnh Gia chở C về nơi ở trọ của S. S đồng ý nên mượn xe và điều khiển xe tay ga màu đen (không rõ biển số) đến chở C đi về phòng trọ của S. Khi đến phòng trọ của S thì C đi vệ sinh và thấy trên kệ chén có 01 con dao tự chế bằng kim loại dài khoảng 25cm cầm ra ngoài. C lấy băng keo màu đen để ngay trên bếp gas và tự quấn phần lưỡi dao, chừa một phần mũi dao khoảng 3cm. Lúc này S thấy C quấn băng keo trên phần lưỡi dao nên hỏi C dùng băng keo để quấn dao để làm gì thì C trả lời “quấn dao để đâm không chết” nếu đâm vào cơ thể người thì sẽ không thấu sâu. Sau khi quấn xong băng keo một phần lưỡi dao thì C cất dao vào túi quần của mình và nói S mượn xe Yamaha Sirius biển số 60B4-xxx.39 chở đi tìm người đã đánh C tại phía trước dãy trọ Thái Tuấn thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (xe này S mượn của phòng trọ đối diện). Khi đến nơi thì S chở C qua lại 02 lượt qua khu vực nhà trọ nhằm mục đích tìm đối tượng đã đánh C trước đó. Sau khi quan sát thấy một người thanh niên có hình xăm trổ ở hai tay có đặc điểm giống như người thanh niên đã đánh C tại bàn nhậu của nhóm Tư K. Lúc này, C nói S dừng xe lại đứng bên ngoài chờ, C đi thẳng vào vị trí người thanh niên đang nằm trên võng là anh Lê Văn N đang chơi Game trên điện thoại và C dùng tay phải rút dao bên túi quần bên phải đâm 02 nhát vào vùng hõm vai bên trái của N rồi chạy ra yêu cầu S chở đi đến khu vực vòng xoay An Phú thuộc phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để uống rượu tiếp. Trên đường đi C kể cho S nghe việc C đã dùng dao đâm vào người đã đánh mình, khi chạy đến khu vực gần cầu Khánh Vân thuộc phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, S kêu C bỏ dao, C và S xuống xe đứng tiểu, C vùi dao vào một đống đất rồi dùng chân lấp lại. S và C uống rượu đến khoảng hơn 23 giờ 00 phút cùng ngày, S chở C về phòng trọ thì bị Cơ quan Công an mời về làm việc. Tại Cơ quan Công an Phạm Văn C và Hà Lạm S đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình và vị trí cất dấu con dao gây án để lực lượng Công an đến lập biên bản thu giữ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 602/GĐPY ngày 04/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Nạn nhân bị 02 vết thương thủng đứt da cơ vùng bờ vai và thượng đòn trái;

+ Đứt tĩnh mạch dưới đòn trái;

+ Thủng xuyên thấu thùy trên, dưới phổi trái;

+ Khoang phổi trái chứa 2500gr máu đông và không đông; Cơ chế hình thành vết thương:

+ Nạn nhân bị 02 vết thương gây đứt, thủng da cơ. Trong đó có một vết thương vùng thượng đòn trái đứt tĩnh mạch dưới đòn trái và thấu vào trong màng phổi trái gây thủng xuyên thấu thùy trên và thùy dưới phổi trái gây mất nhiều máu dẫn đén tử vong cho nạn nhân. Hai vết thương được hình thành theo cơ chế đâm.

+ Đặc điểm hung khí: hai vết thương trên được tạo do hung khí có đặc điểm sắc, nhọn, có bản mỏng và có độ dài (dao, dao thái thịt….) Nguyên nhân chết: Choáng mất máu cấp do vết thương thấu ngực gây đứt tĩnh mạch dưới đòn trái, thủng phổi trái.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 6053/C09B ngày 25/12/2020 của Phân viện Khoa học hình sự Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

+ Không phát hiện ADN người trên cán dao gửi giám định.

+ Phân tích gen (ADN) từ dấu vết trên lưỡi dao gửi giám định được kiểu gen lẫn, không xác định kiểu gen cá thể.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 đôi dép quai kẹp màu xanh và 01 (một) con dao dài khoảng 21,5cm, cán dao bằng kim loại, bản dao rộng khoảng 2,5cm là hung khí C sử dụng gây án và không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình của bị hại Lê Văn N có đơn yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 69.620.000 đồng (sáu mươi chín triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng). Bà Nguyễn Thị Tuyết là mẹ ruột của bị cáo Hà Lạm S đã bồi thường cho gia đình người bị hại Lê Văn N số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Đối với Nguyễn Thanh K (Tư K) và Đặng Vũ L có hành vi đánh nhau với Phạm Văn C nhưng chưa đến mức xử lý hình sự về hành vi gây rối trật tự công cộng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương đã có văn bản đề nghị Công an phường Tân Hiệp, xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 08/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Căn cứ các Điều 298, 299, 326, 327, 329, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1/ Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn C, Hà Lạm S phạm tội “Giết người” Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Phạm Văn C 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020.

Xử phạt bị cáo Hà Lạm S 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/6/2021 bị cáo S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 17/6/2021 đại diện bị hại Lê Văn B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo C và S.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm như sau: Hành vi của các bị cáo có tính chất côn đồ, mặc dù không có mâu thuẫn với bị hại nhưng tước đoạt tính mạng bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo C 17 năm tù, bị cáo S 12 năm tù về tội “Giết người” là đã xem xét, chiếu cố, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Nay người đại diện bị hại và bị cáo S kháng cáo nhưng không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên đề nghị bác đơn kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho các bị cáo cho rằng ý thức của các bị cáo không muốn tước đoạt sinh mạng của bị hại thể hiện ở hành động quấn băng keo vào dao nhằm không đâm sâu, không gây chết người. Bị cáo S cũng thống nhất ý chí với bị cáo C ngay từ ban đầu là chỉ giúp sức đi đánh bị hại. Sau khi xét xử sơ thẩm, đại diện bị hại cũng kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo, sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo nhất trí vời lời bào chữa của luật sư, không tham gia tranh tụng thêm; nói lời nói sau cùng rất hối hận về việc làm của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, để sớm về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Đơn kháng cáo của bị cáo Hà Lạm S, đại diện bị hại Lê Văn B đúng luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1]. Bị cáo Hà Lạm S dùng xe mô tô chở bị cáo Phạm Văn C đi lấy dao; đến nơi thực hiện tội phạm, bị cáo C dùng dao đâm 2 nhát vào vùng hõm vai bên trái của bị hại N, dẫn đến bị hại tử vong sau khi được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Phạm Văn C, Hà Lạm S phạm tội: “Giết người” là đúng tội.

[2]. Xét đơn kháng cáo của đại diện bị hại ông Lê Văn B (cha của người bị hại) và của bị cáo S về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo thì thấy:

[2.1]. Trong lúc uống rượu, bị cáo C bị Phạm Thanh K đánh, được mọi người can ngăn và chở bị cáo C về nhà, nên việc mâu thuẫn giữa hai bên đã chấm dứt.

[2.2]. Khi bị cáo C lấy dao quay lại, thì Phạm Thanh K không còn ở phòng trọ. Bị cáo C và người bị hại N hoàn toàn không có mâu thuẫn; tuy nhiên, bị cáo dùng dao là hung khí rất nguy hiểm, đâm 2 nhát vào vùng hõm vai bên trái của bị hại, dẫn đến bị hại tử vong do choáng mất máu cấp, vết thương thấu ngực, gây đứt tĩnh mạch dưới đòn trái, thủng phổi trái.

[2.3]. Bị cáo S cùng uống rượu và chứng kiến mâu thuẫn giữa bị cáo C và Phạm Thanh K; S dùng xe mô tô chở C về nhà lấy dao, rồi tiếp tục chở đi thực hiện tội phạm; sau khi thực hiện xong tội phạm, bị cáo S lại chở bị cáo C rời khỏi hiện trường để tẩu thoát. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của bị cáo S là đồng phạm với bị cáo C, tham gia với vai trò giúp sức tích cực. Hành vi phạm tội của các bị cáo là xem thường pháp luật, xem thường tính mạng của người khác, thể hiện tính chất côn đồ nên Tòa án xét xử các bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[2.4]. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo C, S tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xử phạt bị cáo C 17 năm tù, bị cáo S 12 năm tù là nhẹ, đã chiếu cố so với hành vi, hậu quả do hành vi của các bị cáo gây ra. Đại diện người bị hại, bị cáo S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[3]. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho các bị cáo, bác đơn kháng cáo của đại diện người bị hại ông Lê Văn B và bị cáo Hà Lạm S; giữ y mức án của bản án sơ thẩm.

Bị cáo S kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lê Văn B là người đại diện bị hại, bị cáo Hà Lạm S; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 08/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương như sau:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn C, Hà Lạm S phạm tội: “Giết người” Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn C 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Văn C 45 ngày để bảo đảm thi hành án.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Hà Lạm S 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Hà Lạm S 45 ngày để bảo đảm thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hà Lạm S nộp 200.000 đồng;

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 44/2022/HS-PT

Số hiệu:44/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về