TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 103/2020/HS-PT NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 101/2020/TLPT-HS ngày 08-01-2020 đối với các bị cáo Nguyễn Thành H và đồng phạm về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Thành H (H ghẻ), sinh năm 1997 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: 67A T, V, N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 11/12; con ông Nguyễn M (1966) và bà Nguyễn Thị Ánh N (1967); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/01/2019, có mặt tại phiên tòa.
2. Huỳnh Quốc D (M), sinh năm 1987 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: 52 T, Trường Hải, V, N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 6/12; con ông Huỳnh Văn H (1960) và bà Nguyễn Thị N (1962); vợ Phạm Thị Huyền T (1997), có 02 con, lớn 03 tuổi, nhỏ 01 tuổi; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/01/2019, có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Văn H1 (H1), sinh năm 1993 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: 97 Võ Thị Sáu, V, N, Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 6/12; con ông Nguyễn Văn T (1966) và bà Biền Thị C (1968); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/01/2019, có mặt tại phiên tòa.
- Những người tham gia tố tụng khác:
- Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quốc D:
Luật sư Lê Văn T – Văn phòng Luật sư T và cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa, có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thành H, Nguyễn Văn H1:
Luật sư Nguyễn Duy D – Văn phòng luật sư D, Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa, Có mặt.
- Bị hại: Anh Hàng Minh H2 (1986); nơi ĐKNKTT: Khánh Hòa; nơi cư trú: N, Khánh Hòa, vắng mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có 5 bị cáo khác ( Nguyễn A ( A); Lê Văn H ( Đ); Huỳnh Quốc T ( T); Nguyễn Hồng S ( C); Huỳnh Đình D), những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do nghi ngờ tối ngày 12/11/2017 anh Hàng Minh H2 đã tham gia đánh mình, nên H nảy sinh đánh anh H2 để trả thù. Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 15/11/2017, H chuẩn bị 03 mã tấu và gọi điện thoại rủ Nguyễn A, Lê Văn H3, Huỳnh Quốc T, Huỳnh Đình D, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Vãn H1 chuẩn bị hung khí để đi đánh anh H2, cả nhóm đều đồng ý. Do không biết nơi ở của anh H2 nên Nguyễn A đã gọi điện thoại cho Nguyễn Hồng S rủ cùng đi đánh anh H2 thì S đồng ý. Khi đi, Nguyễn A mang theo 01 con dao bấm và 01 khẩu súng phà (súng tự chế, bắn đạn hỏa khí), H, H3, S, H1, Đình D mỗi người cầm theo 01 mã tấu, T và Quốc D mỗi người cầm theo 01 súng bắn cá. Khi cả nhóm đi đến quán cà phê Milano thuộc thôn P, xã P thì Đình D phát hiện thấy anh H2 nên chỉ tay và nói: “Nó kìa”. Nghe vậy, cả nhóm của H dừng xe, cầm hung khí xông vào quán, anh H2 hoảng sợ bỏ chạy thì hậu cầm 01 ly thủy tinh ném theo nhưng không trúng.
Khi anh H2 chạy ra đến trước cửa quán thì bị Nguyễn A cầm súng phà bắn thẳng vào người. Anh H2 bỏ chạy được một đoạn vào đường hẻm gần đó thì gục ngã, sau đó được người dân đưa đi cấp cứu. Nhóm của H sau khi bắn anh H2 thì lên xe đi về khu vực bãi đất trống P ở V, khi đi ngang qua cầu B, Nguyễn A đã ném cây súng và số đạn còn lại xuống sông.
Tại các Kết luận giám định số 3095/C54B ngày 30/7/2018 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ Công an; số 284/TgT ngày 22/8/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa; số 148/18/TgT ngày 30/10/2018 của Phân viện pháp y quốc gia kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Hàng Minh H2 do thương tích gây ra là 24% Tại Cáo trạng số 56/CT-VKSKH-P1 ngày 10/9/2019 cùa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố các bị cáo Nguyễn A, Nguyễn Thành H, Lê Văn H3, Huỳnh Quốc T, Nguyễn Hồng S, Huỳnh Đình D, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 đều về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ Luật hình sự năm 2015.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HSST ngày 27/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 đều phạm tội “Giết người”.
1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1.
Áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc D 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H1 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.
Trong thời hạn luật định, các bị cáo Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành H, Nguyễn Văn H1, Huỳnh Quốc D, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư Lê Văn Tuấn bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quốc D cho rằng Toà án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “ Giết người” là đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên hành vi của bị cáo Huỳnh Quốc D thực hiện vai trò giúp sức, hành vi rút súng bắn của bị cáo Anh vào bị hại, D không biết, hành vi của bị cáo D chỉ bị xét xử ở khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Luật sư Nguyễn Duy Dương bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành H, Nguyễn Văn H1 cho rằng về tội danh “ Giết người” thì đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát, các bị cáo H, H1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự giảm hình phạt cho các bị cáo.
Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đều xin Hội đòng xét xử xem xét giảm hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, xem xét ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 khai nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Toà án cấp sơ thẩm xét xử đúng tội danh và hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 phù hợp với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để xác định: do nghi ngờ anh Hàng Minh H2 là người đã đánh mình trước đó nên tối ngày 15/11/2017, Nguyễn Thành H đã rủ các đối tượng gồm Nguyễn A, Lê Văn H3, Huỳnh Quốc T, Huỳnh Đình D, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 cùng đi đánh anh H2, các đối tượng trên đều đồng ý. Vì cả nhóm không biết nhà của H2 nên Nguyễn A đã gọi điện rủ Nguyễn Hồng S cùng đi đánh H2 thì S đồng ý. Khi đi, Nguyễn A cầm theo một súng phà (súng tự chế, bắn đạn hỏa khí) và một dao bấm; H, H3, H1, S, Đình D mỗi người cầm theo một mã tấu; T, Quốc D mỗi người cầm theo một súng bắn cá. Khi cả nhóm đi đến quán cà phê Milano thuộc thôn P, xã P thì Đình D phát hiện thấy anh H2 nên chỉ tay về phía H2 và hô “nó kìa”. Nghe vậy cả nhóm của H cầm hung khí nhảy xuống xe xông vào quán thì anh H2 bỏ chạy, H cầm ly thủy tinh ném theo nhưng không trúng, anh H2 chạy ra đến trước cửa quán thì bị Nguyễn A cầm súng phà bắn thẳng vào người, anh H2 chạy vào đường hẻm gần đó rồi gục ngã, sau đó được mọi người đưa đi cấp cứu. Nhóm của H sau khi bắn anh H2 thì lên xe quay về, lúc đi ngang qua cầu B thì Nguyễn A đã ném khẩu súng phà và số đạn còn lại xuống sông. Các Kết luận giám định số 3095/C54B ngày 30/7/2018 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ Công an; số 284/TgT ngày 22/8/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa và số 148/18/TgT ngày 30/10/2018 của Phân viện pháp y quốc gia đều kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Hàng Minh H2 do thương tích gây ra là 24%. Với hành vi phạm tội đó, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo: Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ Luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Chỉ vì nghi ngờ anh H2 là người đã đánh mình trước đó, H đã rủ và cùng bị cáo khác đi tìm đánh anh H2, hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, hung hãn và xem thường pháp luật. Trong vụ án này, Nguyễn Thành H là bị cáo chủ mưu, trực tiếp rủ các bị cáo khác đi đánh anh H2, bản thân H chuẩn bị 03 cây mã tấu để làm hung khí. Khi gặp anh H2, H là người xông vào dùng ly thủy tinh ném nhưng không trúng anh H2. Bị cáo Huỳnh Quốc D và Nguyễn Văn H1 là những người được bị cáo H, bị cáo Nguyễn A rủ đi đánh anh H2 và đã đồng ý. Khi đi, các bị cáo sử dụng các hung khí nguy hiểm gồm mã tấu, súng bắn cá. Trong vụ án này, mặc dù các bị cáo không tham gia gây thương tích cho anh H2 nhung các bị cáo đều là đồng phạm với vai trò giúp sức. Khi xét xử sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo như: tất cả các bị cáo đều thành thật khai báo; ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại. Đối với Huỳnh Quốc D và Nguyễn Văn H1 được áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Các lý do mà các bị cáo nêu ra trong đơn kháng cáo như đã nhận thức hành vi sai trái, nhân thân tốt, gia đình khó khăn thì thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi lượng hình đã xem xét nhân thân cho các bị cáo, còn hoàn cảnh gia đình khó khăn không phải là tình tiết giảm nhẹ; mặt khác mức án mà cấp sơ thẩm tuyên là phù hợp nên kháng cáo của các bị cáo không có cơ sở xem xét.
Từ phân tích lập luận trên, Toà án cấp phúc thẩm thấy rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật, hình phạt tuyên tương xứng với tính chất hành vi và hậu quả của vụ án mà các bị cáo đã thực hiện; kháng cáo của các bị cáo không có cơ sở nên không được chấp nhận, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQHK14 về án phí, lệ phí Toà án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Thành H (H ghẻ), Huỳnh Quốc D (M) và Nguyễn Văn H1 (H1), giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1; Đối với Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1 được áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc D 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H1 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/01/2019.
2. Về án phí phúc thẩm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Thành H, Huỳnh Quốc D, Nguyễn Văn H1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 103/2020/HS-PT
Số hiệu: | 103/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về