Bản án về tội đánh bạc số 103/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 103/2023/HS-PT NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 15 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 174/2023/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 79/2023/HS-ST ngày 05-7-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

- Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1977 tại thành phố L, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Số G, đường L, khóm A, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông (không rõ) và bà Phùng Thị B (chết); Bị cáo có chồng tên Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1972 và có 02 người con, lớn sinh năm 2000 và nhỏ sinh năm 2004; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 23/8/2016, bị TAND thành phố Long Xuyên xử phạt 22.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, đã thi hành xong ngày 11/07/2023. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/11/2022 đến nay. và có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Bà Võ Thị Đ – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A. (Có mặt) (Ngoài ra, còn có người tham gia tố tụng khác không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Thanh T đã bị kết án về tội “Đánh bạc” nhưng chưa được xóa án tích. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/8/2022, Nguyễn Thị Thanh T cùng với Lê Thị B1 đến khu vực đường P, tổ A, khóm P, phường M, thành phố L thấy Phạm Minh T1, Kiều Thị Kim X, Bùi Thị Ngọc D và một số người không rõ họ tên, địa chỉ đang đánh bạc dưới hình thức chơi bài binh sáu lá lựa ăn thua bằng tiền. Lúc này, T và B1 rủ nhau vào đánh bạc. T đưa cho B1 200.000 đồng để B1 trực tiếp đánh bạc, còn T đứng phía sau xem bài. B1 dùng tiền của T đánh được 05 ván, mỗi ván B1 đặt cược 50.000 đồng, trong 05 ván đó thì B1 và T thắng 04 ván, thua 01 ván, đến ván thứ 06 thì bị lực lượng Công an phường M phát hiện lập biên bản và thu giữ trên chiếu bạc số tiền 2.210.000 đồng. Vật chứng và tài sản thu giữ gồm: 01 bộ bài tây, 01 tấm giấy cứng; Số tiền trên chiếu bạc 2.210.000 đồng; T2 của Kiều Thị Kim X: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax và 3.364.000 đồng; Thu của Phạm Minh T1 110.000 đồng; T2 của Lê Thị B1 số tiền 1.200.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu vàng; Thu của Nguyễn Thanh H: 01 điện thoại di động hiệu S1 A9, 01 xe mô tô hiệu Wave, biển số 67B1-642.37 và 5.060.000 đồng; Thu của Trần Thanh B2: 01 điện thoại di động hiệu S1 A02 và 2.380.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic màu đỏ, trắng biển số 67B2-342.20, thu của Đặng Văn P1;

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu trắng biển số 67B2-XXXX, thu của Nguyễn Thanh S; Thu của Bùi Thị X1 890.000 đồng; T2 của Phạm Văn N 1.473.000 đồng; T2 của Huỳnh Văn T3 125.000 đồng.

Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 09/2023/KLGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2023 của Trung tâm P2 Bộ Y, đối với Nguyễn Thị Thanh T sinh năm 1977, xác định về y học: Trước, trong, sau khi xảy ra vụ việc và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, giai đoạn hưng cảm nhẹ (F31.0- ICD10); Về năng lực: Tại thời điểm xảy ra vụ việc và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, giai đoạn bệnh tiến triển.

Cáo trạng số: 40/CT-VKS ngày 28/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 79/2023/HS-ST ngày 05-7-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm q, s điểm i khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 10/7/2023 bị cáo Nguyễn Thị Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo với lý do bị cáo bị bệnh tâm thần, phải đi lấy thuốc và uống thuốc mỗi ngày.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T có nội dung yêu cầu rõ ràng, gửi trong hạn luật định, nên đủ cơ sở chấp nhận xét xử theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Thị Thanh T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tuyên phạt bị cáo 06 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo, xét thấy bị cáo có bệnh lý tâm thần đang phải điều trị bệnh và cần dùng thuốc hàng ngày; Ngày 23/8/2016, bị TAND thành phố Long Xuyên xử phạt 22.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” bị cáo đã thi hành xong; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian được tại ngoại không có vi phạm pháp luật gì mới, xét thấy bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T; Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Đề nghị xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Giao cho Ủy ban nhân dân phường M, thành phố L, tỉnh An Giang, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Thống nhất về tội danh, khung hình phạt như Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay, không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, diễn biến tại phiên tòa bị cáo đã nhận thấy sai phạm của mình và thừa nhận hành vi không có né tránh, về tình tiết giảm nhẹ cũng đã được xem xét tại cấp sơ thẩm, bị cáo cũng có cố gắng khắc phục trong điều kiện gia đình khó khăn để nộp phạt, ở đời sống địa phương gia đình chấp hành tốt, hòa nhã với mọi người với địa phương nhưng do đã bị xử phạt đánh bạc nên gia đình bị cáo không được xét là gia đình văn hóa. Bị cáo có bệnh lý tâm thần vẫn đang phải điều trị, bị cáo cũng cần được ở ngoài để uống thuốc điều trị bệnh do bệnh cũng không được ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T kháng cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo để giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Thị Thanh T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo nhận thấy:

Năm 2016, Bị cáo đã bị Tòa án xử phạt tiền về tội đánh bạc, lẽ ra bị cáo phải tu chí làm ăn, làm người có ích cho gia đình và xã hội nhưng vì mong muốn thu lợi bất chính mà bị cáo lại tham gia đánh bạc đây là tình tiết định tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn khác, xâm phạm đến trật tự công cộng do Nhà nước quản lý, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục, cải tạo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 06 tháng tù là phù hợp, thỏa đáng, đúng pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

Lẽ ra, cần giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm tuyên phạt. Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo bị xử phạt 22.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” năm 2016 đã chấp hành xong, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có bệnh lý tâm thần vẫn đang phải điều trị và sử dụng thuốc trong thời gian dài do tính chất căn bệnh không ổn định; trong thời gian được tại ngoại bị cáo không có vi phạm pháp luật gì mới; có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy, không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử có cân nhắc và quyết định chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo như Đại diện Viện kiểm sát và luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị.

[4] Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T được Hội đồng xét xử chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T xin hưởng án treo;

Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt;

Áp dụng: Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm q, s khoản 1 Điều 51, Điều 65, Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 06 (sáu) tháng tù, về tội “Đánh bạc” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày 15/9/2023.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Thanh T cho Ủy ban nhân dân phường M, thành phố L, tỉnh An Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. (Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo).

Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 103/2023/HS-PT

Số hiệu:103/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về