Bản án về tội đánh bạc số 08/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 194/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cao Thị Thảo N, tên gọi khác: Không; sinh năm 1995 tại Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ 03, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Nội trợ;

trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn N1, sinh năm 1963 và bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1965; có chồng: Chung Tự T, sinh năm 1992 và 02 người con sinh năm 2016 và năm 2018;

Tiền án: Không; tiền sự: 01 lần. Ngày 15/02/2020, bị Công an phường H, thành phố P xử phạt 1.500.000 đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002506 về hành vi Đánh bạc trái phép xảy ra ngày 13/02/2020 tại tổ 04, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Ngày 18/8/2020, tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc tại tổ 04, phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Đến ngày 08/10/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku khởi tố, điều tra về tội “Đánh bạc”, sau đó bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Hiện bị cáo đang tại ngoại.

Có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Công T1, tên gọi khác: Duy; sinh năm 1990 tại Quảng Ngãi.

Nơi cư trú: Tổ 07, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Kế toán;

trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành C, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Huỳnh Thị H1, sinh năm 1963; chưa có vợ, con;

Tiền án: Không; tiền sự: 01 lần. Ngày 15/02/2020, bị Công an phường H, thành phố P xử phạt 1.500.000 đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002505 về hành vi Đánh bạc trái phép xảy ra ngày 13/02/2020 tại tổ 04, phường H2, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Ngày 18/8/2020, tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc tại tổ 04, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Đến ngày 08/10/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku khởi tố, điều tra về tội “Đánh bạc”, sau đó bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Hiện bị cáo đang tại ngoại. Có mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Lê M, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 34 đường Nguyễn An Ninh, tổ 05, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng

1. Bà Nguyễn Thị Lê A, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ 05, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt;

2. Bà Nguyễn Thị Thanh L1, tên gọi khác: H, sinh năm 1985; địa chỉ: Làng Đ, xã Ia L, huyện C1, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt;

3. Bà Hồ Đinh Vy U, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ 01, phường H2, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a) Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Cao Thị Thảo N, Nguyễn Công T1, Nguyễn Thị Thanh L1 và Nguyễn Thị Lê A có quan hệ quen biết với nhau. Vào lúc 10 giờ ngày 18/8/2020, L1 đi từ huyện C1 đến thành phố P chơi rồi gọi điện thoại báo cho N biết thì Nhi hẹn gặp L1 tại quán trà sữa H, tổ 04, phường Đ, thành phố P. Lúc này, N đang đi cùng với Lê A nên rủ Lê A cùng đến quán trà sữa H uống nước với L1, Lê A đồng ý. Khoảng 11 giờ cùng ngày, N và Lê A đến và ngồi tại tầng 3 của quán trà sữa H. Lê A gọi điện thoại rủ T1 đến chơi cùng thì T1 đồng ý. Khoảng 15 phút sau thì L1 đến, do L1 biết bói bài nên N hỏi mượn nhân viên của quán 01 bộ bài tú lơ khơ (loại 52 lá bài) thì người này đưa cho N 02 bộ bài tú lơ khơ và nói “Chị xem bộ nào chơi được thì chơi”. N lấy 02 bộ bài đưa cho L1 để L1 bói cho N và Lê A. Trong lúc bói bài, thì P đến ngồi chơi một lúc rồi bỏ đi. Sau khi bói bài cho N và Lê A xong, N, Lê A và L1 cùng nhau đánh bài tiến lên nhưng không thắng thua bằng tiền. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, T1 đến thì N rủ Lê A, L1 và T1 đánh bạc dưới hình thức đánh bài tiến lên, thắng thua bằng tiền thì cả T1, Lê A và L1 đều đồng ý.

Về hình thức đánh bài tiến lên, thắng thua bằng tiền cụ thể như sau: Các đối tượng sử dụng 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ gồm 52 lá bài. Mỗi ván sử dụng 01 bộ bài. Đầu tiên, 01 người xóc bài, chia đều cho 04 người theo chiều kim đồng hồ, mỗi người 13 lá bài. Sau khi chia bài xong, người đánh đầu tiên là người có lá bài 3 bích, những người còn lại đánh theo cho đến khi hết 13 lá bài được chia. Người đánh hết đầu tiên là người thắng nhất, người đánh hết bài thứ 2 là người thắng nhì, người đánh hết bài thứ 3 là người thua nhì (về ba), người còn lại là người thua nhất (về bét).

Người thua nhất (về bét) chung tiền cho người thắng nhất 10.000đ, người thua nhì (về ba) chung tiền cho người thắng nhì 5.000đ. Nếu một người có khạp tức là 3 quân bài có số giống nhau thì 03 người còn lại không có khạp mỗi người chung 5.000đ, nếu ai cũng có khạp thì người có khạp lớn nhất thắng của 03 người còn lại mỗi người chung 5.000đ (khạp lớn nhất là có 03 lá bài số 2, khạp lớn nhì là có 03 lá bài chữ A, còn lại theo thứ tự nhỏ dần từ 03 lá bài chữ K cho đến 03 lá bài số 3). Không tính tứ quý.

Đến khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, khi Cao Thị Thảo N, Nguyễn Công T1, Nguyễn Thị Thanh L1 và Nguyễn Thị Lê A đang đánh bạc tại quán trà sữa H, tổ 04, phường Đ, thành phố P thì bị Công an phường Phù Đổng kiểm tra hành chính, phát hiện, thu giữ tại chiếu bạc 1.620.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 02 bộ bài Tú lơ khơ đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra, xác định số tiền Cao Thị Thảo N, Nguyễn Công T1, Nguyễn Thị Thanh L1 và Nguyễn Thị Lê A mang theo, sử dụng đánh bạc và ăn thua như sau:

- Cao Thị Thảo N sử dụng 300.000 đồng vào việc đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, chị Hồ Đinh Vy U đến trả cho N 220.000 đồng tiền mua hàng, N cũng sử dụng số tiền 220.000 đồng này để đánh bạc. Tổng cộng số tiền N sử dụng vào mục đích đánh bạc là 520.000 đồng. Tại thời điểm bị phát hiện, Cao Thị Thảo N đang thắng 150.000 đồng.

- Nguyễn Công T1 mang theo 300.000 đồng và sử dụng hết số tiền trên để đánh bạc. Tại thời điểm bị phát hiện, Nguyễn Công T1 thua 120.000 đồng.

- Nguyễn Thị Lê A mang theo 400.000 đồng để đánh bạc. Tại thời điểm bị phát hiện, Nguyễn Thị Lê A thắng 230.000 đồng.

- Nguyễn Thị Thanh L1 mang theo 400.000 sử dụng hết số tiền để đánh bạc. Tại thời điểm bị phát hiện, Nguyễn Thị Thanh L1 thua 260.000 đồng.

Về vật chứng: Đối với số tiền 1.620.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc và 02 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku chuyển theo hồ sơ vụ án.

b) Về các vấn đề khác của vụ án:

Đối với Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1, do số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng và qua điều tra xác định L1 và Lê A đều chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc” và tội “Tổ chức đánh bạc, gá bạc” nên hành vi của Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1 không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 BLHS; Cơ quan điều tra xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1.

Đối với anh Nguyễn Lê M là người quản lý quán Trà sữa H, nơi các bị cáo đánh bạc. Quá trình điều tra xác định, tại thời điểm N, T1, Lê A và L1 đánh bạc trên tầng 3 thì anh M không có tại quán nên không biết sự việc. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với anh M.

Đối với người nhân viên nữ đã đưa bài cho bị cáo Cao Thị Thảo N mượn, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Pleiku đã tiến hành xác minh, điều tra nhưng do người nữ nhân viên này đã nghỉ làm tại quán, chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa làm việc được, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

c) Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 14-12-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo Cao Thị Thảo N và Nguyễn Công T1 về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50, Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Cao Thị Thảo N mức án từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Công T1 mức án từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.620.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng để đánh bạc; tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài bài tú lơ khơ đã qua sử dụng là công cụ để đánh bạc.

Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận về lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải, cam đoan không tái phạm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về chứng cứ xác định có tội đối với các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 18/8/2020, Cao Thị Thảo N, Nguyễn Công T1, Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1 đang đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài tiến lên tại quán trà sữa H thuộc tổ 04, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai thì bị Công an phường Phù Đổng, thành phố Pleiku kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ trên chiếu bạc 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ (loại bài 52 lá bài/01 bộ) đã qua sử dụng và 1.620.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

[3] Mặc dù số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, nhưng các bị cáo Cao Thị Thảo N và Nguyễn Công T1 đã bị xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 15- 02-2020 về hành vi đánh bạc trái phép, đến ngày thực hiện hành vi phạm tội “Đánh bạc” chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại tiếp tục vi phạm, nên hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 14-12-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo Cao Thị Thảo N và Nguyễn Công T1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo đều là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có học vấn 12/12 và nhận thức pháp luật, biết hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền bị pháp luật nghiêm cấm, tuy nhiên vì thõa mãn cá nhân đam mê cờ bạc nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi đánh bạc trái phép. Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn thông thường, bị cáo Cao Thị Thảo N là người khởi xướng và đồng thời cùng với bị cáo Nguyễn Công T1 và các đối tượng Nguyễn Thị Lê A, Nguyễn Thị Thanh L1 thực hiện hành vi đánh bạc, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc bị cáo N sử dụng 520.000 đồng, bị cáo T1 sử dụng 300.000 đồng nên hình phạt của bị cáo Cao Thị Thảo N cao hơn hình phạt của bị cáo Nguyễn Công T1. Do đó, cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục, răn đe, phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn cờ bạc, giữ gìn trật tự công cộng tại địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[7] Về quyết định hình phạt: Xét thấy các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đều có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo mà áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo cũng không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đủ để giáo dục và răn đe phòng ngừa chung đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước và tạo điều kiện cho các bị cáo sữa chữa sai lầm, trở thành người công dân có ích cho xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku cần chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, Tuy nhiên theo lời khai tại phiên tòa và tài liệu có tại hồ sơ thể hiện các bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập thường xuyên ổn định, nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Trong vụ án này còn có Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1 cùng tham gia đánh bạc được thua bằng tiền, do số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng và qua điều tra xác định được L1 và Lê A đều chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc” và tội “Tổ chức đánh bạc, gá bạc” nên hành vi của Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1 không đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự; Cơ quan điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Thị Lê A và Nguyễn Thị Thanh L1 là đúng quy định của pháp luật.

[10] Đối với Nguyễn Lê M là người quản lý quán Trà sữa H, nơi các bị cáo đánh bạc. Quá trình điều tra xác định, tại thời điểm N, T1, Lê A và L1 đánh bạc trên tầng 3 thì anh M không có tại quán nên không biết sự việc. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với anh M là có cơ sở.

[11] Đối với người nhân viên nữ đã đưa bài cho bị cáo Cao Thị Thảo N mượn, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Pleiku đã tiến hành xác minh, điều tra nhưng do người nữ nhân viên này đã nghỉ việc tại quán, chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa làm việc được, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Đối với số tiền 1.620.000 đồng các bị cáo sử dụng đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 02 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng, là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[13] Về án phí: Các bị cáo Cao Thị Thảo N và Nguyễn Công T1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Cao Thị Thảo N và Nguyễn Công T1 phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Cao Thị Thảo N 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/01/2021).

Giao bị cáo Cao Thị Thảo N cho Ủy ban nhân dân phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai trong việc giám sát, giáo dục bị cáo;

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T1 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27-01- 2021).

Giao bị cáo Nguyễn Công T1 cho Ủy ban nhân dân phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai trong việc giám sát, giáo dục bị cáo;

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 1.620.000 đồng (một triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng.

(Tất cả vật chứng nêu trên có số lượng, đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Cao Thị Thảo N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Buộc bị cáo Nguyễn Công T1 phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội đánh bạc số 08/2021/HS-ST

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về