Bản án về tội cướp giật tài sản số 310/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 310/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 292/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 321/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu T (tên gọi khác: Không), sinh năm: 1996 tại Đ Nơi đăng ký HKTT: Ấp Hưng Bình, xã H, huyện T, tỉnh Đ Chổ ở hiện nay: Ấp Hưng Bình, xã H, huyện T, tỉnh Đ Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: lớp 09/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Hữu Thoại, sinh năm 1966 và bà Phan Thị Tâm, sinh năm 1966.

Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 02 anh em.

Có vợ là chị Lê Thị Lê, sinh năm 1997 có 01 con chung sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ ngày 09/10/2019, chuyển tạm giam theo lệnh số 469 ngày 14/10/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thành phố B (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 1998 – (Vắng mặt) Địa chỉ: 28A, Vũ Hồng Phô, tổ 10, khu phố 5, phường A, thành phố B, tỉnh Đ - Người làm chứng:

1. Anh Đặng Thành Đ sinh năm: 1993 - (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 10, ấp Hưng Nghĩa, xã H, huyện T, Đ.

2. Bà Phan Thị T, sinh năm: 1966 – (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Hưng Bình, xã H, huyện T, Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 06/10/2019 Nguyễn Hữu T, sinh năm 1996, mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade biển kiểm soát 60H1-X của em rể là Nguyễn Hữu Đ để sử dụng, sau đó T đi đến xã Tây Hòa, huyện T tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằng tiền, bị thua số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) do hết tiền nên T nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản, thực hiện ý định trên T điện thoại cho một người tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch) rủ Đ đi cướp giật tài sản, Đ đồng ý, T điều khiển xe mô tô nói trên chở Đ đến thành phố B. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày khi đến đoạn đường Phạm Văn Thuận, thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đ, Thịnh phát hiện chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1995 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode biển kiểm soát 66N1-X lưu thông theo hướng ngược lại với hướng lưu thông của T và chở chị Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 1998 ngồi phía sau có để một túi xách màu đen trên đùi, Thịnh nói với Đ giật túi xách của chị N, Đ đồng ý, T điều khiển xe quay lại và áp sát vào xe của chị H để Đ dùng tay giật mạnh chiếc giỏ xách của chị N rồi Thịnh điều khiển xe mô tô chạy về huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai khi đến đường Nguyễn Huệ, thuộc khu phố 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ, T và Đ dừng xe kiểm tra túi xách trong túi có 40.000 đồng, một cục sạc dự phòng, một dây sạc điện thoại Iphone, một số đồ dùng trang điểm cá nhân và một Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Quỳnh N, T lấy tiền và cục xạc dự phòng còn lại T vứt bỏ lại bên đường gần lô cao su thuộc đường Nguyễn Huệ, khu phố 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ, số tiền có được T và Đ đã sử dụng hết.

Ngày 09/10/2019 Nguyễn Hữu T đến Công an xã Hưng T, huyện T, tỉnh Đ đầu thú, Công an xã Hưng T tiếp nhận lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra, xử lý theo quy định.

- Vật chứng vụ án gồm:

+ Một xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 60H1-X là tài sản của anh Lê Hữu Đ cho T mượn, Đ không biết Thịnh sử dụng để đi cướp giật tài sản, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B đã thu hồi trả lại cho anh Đ.

+ Một áo sơ mi tay dài sọc ca rô lớn màu xanh - trắng, một đôi dép kẹp bằng nhựa màu đen, viền trắng, quai trắng là những vật dụng T mang khi thực hiện hành vi phạm tội.

+ Một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen T sử dụng để liên lạc rủ Đ đi cướp giật tài sản.

+ Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B đã thu hồi trả lại cho chị Nguyễn Thị Quỳnh N một túi xách nhãn hiệu Charles & Keith, một cục sạc dự phòng nhãn hiệu Pineng, một hộp phấn nhãn hiệu Makeup Studio, một hộp phấn nhãn hiệu Sempre, một cây son hiệu Wod, hai cây son nhãn hiệu Rouge Edition Velvet, một cây son hiệu Mac, hai cây chì kẻ chân mày, riêng một chai dầu thơm nhãn hiệu Dubai, một dây sạc điện thoại Iphone và số tiền 40.000 (bốn mươi nghìn đồng) không thu hồi được.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 55/TCKH-HĐĐG ngày 17/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận một túi xách nhãn hiệu Charles & Keith, một cục sạc dự phòng nhãn hiệu Pineng, một hộp phấn nhãn hiệu Makeup Studio, một hộp phấn nhãn hiệu Sempre, một cây son hiệu Wod, hai cây son nhãn hiệu Rouge Edition Velvet, một cây son hiệu Mac, hai cây chì kẻ chân mày, một chai dầu thơm nhãn hiệu Dubai, một dây sạc điện thoại Iphone, giá trị 1.415.280 đồng (một triệu bốn trăm mười lăm nghìn hai trăm tám mươi đồng).

- Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N đã nhận lại một số tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số 189/CT-VKSBH ngày 27 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại giai đoạn điều tra, lời khai ban đầu bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Sau khi nhận được quyết định khởi tố và tại phiên tòa ngày 20/5/2020 bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu, vì bị cáo cho rằng: bị cáo bị phê ma túy, không minh mẫn, khai báo không đúng sự thật, là Đ gọi điện rủ rê bị cáo đi cùng, bị cáo lái xe không biết Đ thực hiện hành vi cướp giật và Đ không trao đổi bàn bạc trước với bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo là người chủ động rủ rê Đ cùng phạm tội, bị cáo chủ động lái xe ép sát bị hại và kêu Đ giật tài sản của người khác, sau khi chiếm đoạt được tài sản thì chạy xe về Trảng Bom kiểm tra số tài sản này và tiêu hết 40 ngàn đồng.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo đối với bị cáo và đề nghị:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 (phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú) của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/10/2019 tại khu vực trước nhà số 255B, đường Phạm Văn Thuận, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Nguyễn Hữu Thịnh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade biển kiểm soát 60H1-X chở đối tượng tên Đ chưa rõ nhân thân, lai lịch đã cướp giật tài sản trị giá 1.415.280 đồng (một triệu bốn trăm mười lăm nghìn hai trăm tám mươi đồng) và 40.000 (bốn mươi nghìn đồng), của chị Nguyễn Thị Quỳnh N. Tổng giá trị tài sản T và Đ chiếm đoạt là 1.455.280 đồng (một triệu bốn trăm năm mươi lăm nghìn hai trăm tám mươi đồng), sau đó T ra đầu thú. Còn Đ thì không bắt được.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, trước đây bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, lý do bị cáo cho rằng bị Đ rủ rê chở đi, bị cáo không bàn bạc trước với Đ về việc phạm tội, bị cáo lái xe chở Đ và bị cáo không hề hay biết, bị cáo không minh mẫn, mới sử dụng ma túy nên khai không đúng sự thật. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng nêu, khi làm việc với cơ quan điều tra thì sức khỏe của bị cáo hoàn toàn tốt, minh mẫn, chính bị cáo là người rủ rê Đ thực hiện tội phạm, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tình tiết khách quan của vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, bị cáo lại đầu thú với cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình. Như vậy, đã có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hữu T đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài mới có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa hôm nay bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; nhân thân tốt, chưa tiền án tiền sự, bị cáo đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Về phần dân sự: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N đã nhận lại một số tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ các Điều 46 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy một áo sơ mi tay dài sọc ca rô lớn màu xanh - trắng, một đôi dép kẹp bằng nhựa màu đen, viền trắng, quai trắng là những vật dụng Thịnh mang khi thực hiện hành vi phạm tội.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Thịnh sử dụng để liên lạc rủ Đ đi cướp giật tài sản.

[9] Về vấn đề khác:

Đối với đối tượng tên Đ có hành vi cùng bị cáo đi cướp giật tài sản hiện chưa rõ họ tên, địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh xử lý sau.

Trong quá trình điều tra T cho biết còn có hành vi sử dụng 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà nhưng không nhớ địa điểm và những người tham gia, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 03 (Ba) năm 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 46 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy một áo sơ mi tay dài sọc ca rô lớn màu xanh - trắng, một đôi dép kẹp bằng nhựa màu đen, viền trắng, quai trắng.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. (Theo biên bản giao nhận ngày 07/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 310/2020/HS-ST

Số hiệu:310/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về