Bản án về tội cướp giật tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 06/01/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 227/2022/TLST-HS ngày 09/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2022/QĐXXST-HS ngày 22/12/2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Quốc Anh H (H Đậu), sinh năm 2003 tại Đ.

HKTT: Tổ 2, ấp B, xã G, huyện T, tỉnh Đ.

Nơi ở hiện nay: Tổ 2, ấp B, xã G, huyện T, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam.

Con ông Phạm Quốc T, sinh năm: 1965 và bà Mai Thị Đ, sinh năm: 1968.

Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 21/5/2020, bị UBND thị trấn T xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “Thuê xâm hại sức khỏe người khác”, đã nộp phạt ngày 01/6/2020.

Bị cáo bị bắt giam giữ ngày 20/4/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đ.

2. Họ và tên: Thân Thế H, sinh năm 1994 tại Đ.

HKTT: Tổ 7, ấp X, xã G, huyện T, tỉnh Đ.

Nơi ở hiện nay: Tổ 7, ấp X, xã G, huyện T, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam;

Con ông Thân Hữu T, sinh năm: 1965 và bà Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm: 1968. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Ngày 19/03/2015, bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 3 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Đến ngày 27/4/2017, chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Sông Cái, bị cáo chưa bồi thường dân sự.

Tiền sự: Ngày 20/8/2020, bị Tòa án nhân dân huyện T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến ngày 28/01/2022 chấp hành xong.

Bị bắt giam giữ ngày 20/4/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 – Cômg an tỉnh Đ.

3. Họ và tên: Thân Thế H1, sinh năm 2001 tại Đ.

HKTT: Tổ 7, ấp X, xã G, huyện T, tỉnh Đ.

Nơi ở hiện nay: Tổ 7, ấp X, xã G, huyện T, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa;

Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam.

Con ông Thân Hữu T, sinh năm: 1965 và bà Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm: 1968. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 21/5/2020, bị UBND thị trấn T xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “Thuê xâm hại sức khỏe người khác”, đã nộp phạt ngày 25/5/2020.

Bị bắt giam giữ ngày 20/4/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đ.

4. Họ và tên: Nguyễn Hoàng B, sinh năm 2001 tại Đắk Lắk.

Hộ khẩu thường trú: Thôn 8, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Nơi ở hiện nay: Ấp Độc Lập, xã G, huyện T, tỉnh Đ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam.

Con ông Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1978 và bà Hoàng Thị H, sinh năm: 1982. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt giam giữ ngày 01/5/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đ.

5. Họ và tên: Trần Thành C (C Thành), sinh năm 1996 tại Đ.

Hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đ Nơi ở hiện nay: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đ;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa;

Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam.

Con ông Trần Văn T, sinh năm: 1971 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1974. Có vợ là chị Trần A L, sinh năm 2002 và 02 người con, con lớn sinh năm 2020, con nhỏ sinh năm 2021.

Tiền án: Ngày 29/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/6/2020 tại trại giam Xuân Lộc.

Tiền sự: Không.

Về nhân thân:

Ngày 26/01/2018, bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”, chưa nộp phạt.

Bị bắt giam giữ từ ngày 22/5/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 – Công an tỉnh Đ.

- Bị hại:

1. Anh Đoàn Thanh N, sinh năm: 1977 Địa chỉ: 54, ấp Q, xã Q, huyện T, tỉnh Đ.

2. Anh Trần Hoàng K, sinh năm: 1969.

Địa chỉ: Tổ 1, ấp 2, xã A, huyện T, tỉnh Đ.

3. Anh Hoàng Hữu Đ, sinh năm: 1977.

Địa chỉ: Tổ 13, ấp T, xã C, huyện T, tỉnh Đ.

4. Anh Trịnh Xuân V, sinh năm: 1987.

Địa chỉ: Tổ 2, ấp 1, xã Sông T, huyện T, tỉnh Đ.

5. Anh Lê Minh C, sinh năm: 1980.

Địa chỉ: Ấp 3, xã A, huyện Long Thành, Đ.

6. Anh Lê Chí S, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Tổ 3, ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đ. (các bị cáo và bị hại S có mặt, các bị hại còn lại vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thân Thế H và Thân Thế H1 là anh em ruột và cùng bạn bè với Nguyễn Hoàng B, Phạm Quốc Anh H, Trần Thành C. Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2022 đến tháng 4/2022, các đối tượng trên thường rủ nhau đi cướp giật tài sản để bán lấy tiền tiêu xài và đã thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản trên địa bàn huyện T và huyện Long Thành, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 28/02/2022, Thân Thế H1 điều khiển xe mô tô Winner (không rõ biển số) chở Nguyễn Hoàng B đi từ xã G đến huyện Long Thành để cướp giật tài sản. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 51 thuộc ấp 5, xã An Phước, huyện Long Thành thì phát hiện anh Lê Minh C đang điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, biển số: 60C1- xxxxx đi cùng chiều hướng từ huyện Long Thành đi thành phố Biên Hòa, trên cổ đang đeo sợi dây chuyền màu vàng nên H1 áp sát bên trái anh C để B dùng tay phải giật sợi dây chuyền do sợi dây chuyền to nên không đứt, anh C cắn vào tay phải của B thì B buông sợi dây chuyền ra, anh C té ngã xuống đường còn H1 chở B tăng ga bỏ chạy thoát.

Tại bản kết luận số 36//KLGĐ ngày 21/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Long Thành kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng dạng mắt xích, trọng lượng 2,172 lượng của anh Lê Minh C bị cướp giật trị giá: 71.676.000 đồng (bảy mươi mốt triệu sáu trăm bảy mươi sáu ngàn đồng) .

- Vụ thứ 2: Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 04/3/2022, Trần Thành C đang ở nhà vợ tại ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T, Đ thì Phạm Quốc Anh H điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, gắn biển số: 60B8- xxxxx đến gặp C. Sau đó C rủ H đi cướp giật tài sản thì H đồng ý. C điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, gắn biển số: 60B8 - xxxxx chở H đi đến Khu công nghiệp Bàu Xéo tìm tài sản cướp giật. Khi đến đường 1A, Khu công nghiệp Bàu Xéo thì C phát hiện anh Trịnh Xuân V đang điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu trắng, biển số: 38P1 - xxxxx lưu thông theo hướng chợ Salim ra Quốc lộ 1 trên cổ có đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng, C liền chạy lên áp sát xe phía bên trái anh V còn H dùng tay phải giật sợi dây chuyền trên cổ anh V rồi tăng ga tẩu thoát về nhà vợ của C. Sau đó H mang sợi dây chuyền đi cướp giật được bán tại tiệm vàng K thuộc ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T được số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng) chia nhau tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐGTS ngày 13/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng loại dây ống vuông, trọng lượng 3,2 chỉ của anh Trịnh Xuân V bị cướp giật trị giá: 9.600.000 đồng (chín triệu sáu trăm ngàn đồng).

- Vụ thứ 3: Vào khoảng 07 giờ ngày 09/3/2022, H, H, H1 và B ngồi tại quán cà phê Nấm thuộc xã G, huyện T thì H rủ cả nhóm đi cướp giật tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì cả nhóm đồng ý. Các đối tượng phân công nhiệm vụ cụ thể như sau: H là người điều khiển xe mô tô chở H có nhiệm vụ đi trước tìm người dân có tài sản sơ hở và trực tiếp giật tài sản, H1 và B có nhiệm vụ ngăn cản nạn nhân hoặc người đi đường đuổi theo H và H bằng việc xịt hơi cay vào người đuổi theo. Sau khi bàn bạc xong B đi về nhà lấy bình xịt hơi cay nhãn hiệu NATO màu xanh, dài khoảng 15cm, hình tròn để đi cướp giật tài sản. H điều khiển xe Exciter màu xanh biển số 60B8-xxxxx chở H đi phía trước, H1 điều khiển xe Exciter màu trắng đỏ biển số 60B8-xxxxx chở B theo sau đi tới xã An Viễn. Khi đến đoạn đường nhựa thuộc ấp 2, xã An Viễn, T thì H và H phát hiện anh Trần Hoàng K điều khiển xe mô tô biển số 60H8- xxxx có đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng trên cổ. H điều khiển xe đuổi theo anh K và ép sát xe bên phải để H dùng tay phải giật sợi dây chuyền vàng anh K đang đeo trên cổ. Thấy vậy anh K hô lớn “Cướp, cướp” thì H liền tăng ga bỏ chạy, anh K điều khiển xe mô tô đuổi theo được 30m thì bị H1 điều khiển xe vượt lên và B dùng bình xịt hơi cay xịt vào người anh K. Sau đó cả nhóm bỏ chạy về xã G. H đưa sợi dây chuyền cướp giật được cho H mang đi bán tại tiệm vàng Liên Thanh thuộc ấp Quảng Biên, xã Quảng Tiến được số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) chia nhau tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 14/KL-HĐĐGTS ngày 18/5/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện T kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 5.2 chỉ của anh Trần Hoàng K bị cướp giật trị giá 17.680.000 đồng (mười bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng).

- Vụ thứ 4: Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 14/3/2022, Trần Thành C đang ở nhà vợ tại ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T, Đ thì Phạm Quốc Anh H điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, biển số: 60B8- xxxxx (gắn biển số giả: 60B8- xxxxx) đến gặp C. Sau đó C rủ H đi cướp giật tài sản thì H đồng ý. C điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, gắn biển số: 60B8- xxxxx chở H từ nhà vợ C theo QL1 sau đó đi vào đường T - Cây Gáo để tìm kiếm những người dân có tài sản cướp giật bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến trạm y tế xã Cây Gáo thì H phát hiện anh Hoàng Hữu Đ điều khiển xe mô tô hiệu Air Blade, màu đen, biển số: 60H1- xxxxx trên cổ có đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng đang đi hướng ngược lại, C liền quay xe lại chạy lên áp sát xe phía bên trái anh Đ còn H dùng tay phải giật sợi dây chuyền trên cổ anh Điệp rồi tăng ga tẩu thoát theo đường 762 hướng về xã Bàu Hàm, huyện T. Sau đó H mang sợi dây chuyền cướp giật được bán tại tiệm vàng K thuộc ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T được số tiền 23.000.000 đồng (Hi mươi ba triệu đồng) chia nhau tiêu xài.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐGTS ngày 7/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng loại dây ô van ống vuông, trọng lượng 10,3 chỉ của anh Hoàng Hữu Đ bị cướp giật trị giá: 30.025.000 đồng (ba mươi triệu không trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

- Vụ thứ 5: Vào khoảng 8 giờ 30 phút ngày 02/4/2022, Phạm Quốc Anh H điều khiển xe mô tô Exciter biển số 60B8-xxxxx chở theo Thân Thế H đi từ xã G đến thị trấn T để tìm tài sản cướp giật bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến khu vực trước Bưu Điện huyện T thì phát hiện anh Đoàn Thanh N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode, biển số 60H1- xxxxx đi từ Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam thuộc Khu công nghiệp Bàu Xéo, huyện T về nhà tại ấp Quảng Lộc, xã Quảng Tiến, T, trên cổ anh N đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng nên H chở H bám theo. Khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc ấp Quảng Lộc, xã Quảng Tiến, huyện T (cách ngã ba đèn đỏ chợ Quảng Biên khoảng 150m) H điều khiển xe chạy áp sát vào phía bên trái xe của anh N còn H ngồi sau dùng tay phải giật sợi dây chuyền trên cổ của anh N, rồi điều khiển xe tẩu thoát theo đường Quốc lộ 1A hướng thành phố Biên Hòa. Sau đó H và H mang sợi dây chuyền vừa chiếm đoạt của anh N đến tiệm vàng K tại ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T bán với giá 13.000.000 đồng, H và H chia nhau mỗi người 6.500.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 19/KL-HĐĐGTS ngày 27/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: Tổng giá trị tài sản của anh Đoàn Thanh N bị cướp giật là: 42.888.000 đồng (bốn mươi hai triệu tám trăm tám mươi tám nghìn đồng).

- Vụ thứ 6: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 15/4/2022, Phạm Quốc Anh H điều khiển xe mô tô Exciter biển số 60B8-xxxxx chở theo Thân Thế H đi từ xã G đến thị trấn T để tài sản cướp giật bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến khu vực đường Hùng Vương thuộc khu phố 3, thị trấn T thì phát hiện anh Lê Chí S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, màu đen trắng, biển số: 49N1- xxxxx đi từ phòng trọ tại ấp 1, xã Sông Trầu, huyện T đi ra đường Hùng Vương hướng về thành phố Biên Hòa trên cổ anh Sao đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng nên H chở H bám theo. Khi đi đến đoạn đường Hùng Vương (cách ngã tư Minh Sang thuộc khu phố 3, thị trấn T khoảng 100m) H điều khiển xe chạy áp sát vào phía bên trái xe của anh S còn H ngồi sau dùng tay phải giật sợi dây chuyền của anh S, rồi tăng ga xe tẩu thoát theo hướng thành phố Biên Hòa. Sau đó H mang sợi dây chuyền đến tiệm vàng K tại ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T bán với giá 15.500.000 đồng, H và H chia nhau mỗi người 7.750.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 20/KL-HĐĐGTS ngày 24/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: Tổng giá trị tài sản của anh Lê Chí S bị cướp giật là: 28.500.000 đồng (hai mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài ra, quá trình điều tra B và H1 còn khai nhận đã thực hiện một số vụ cướp giật dây chuyền và điện thoại trên địa bàn huyện T và huyện Long Thành. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện T đã ra thông báo truy tìm bị hại nhưng chưa xác định được bị hại.

Tại cáo trạng số 231/CT/VKS-TB ngày 30/11/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Phạm Quốc Anh H, Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B đã phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm c, d, đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Trần Thành C đã phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng:

Đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter 135, màu xanh, biển số: 60B8- xxxxx của bị cáo Phạm Quốc Anh H sử dụng để thực hiện hành vi cướp giật tài sản, đề nghị Tòa án tịch thu xung công.

Đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng đỏ, gắn biển số giả 60B8-xxxxx sau khi gây án xong bị cáo Phạm Quốc Anh H đã bán chiếc xe trên cho 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không thu hồi được.

Đối với xe môtô nhãn hiệu Honda Winner, màu xanh không rõ biển số bị cáo Thân Thế H1 mượn của Nguyễn Đình Minh T. Hiện nay chưa làm việc được với T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tách ra điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với biển số giả: 60B8 - xxxxx sau khi thực hiện các vụ cướp giật tài sản bị cáo Phạm Quốc Anh H đã đem cất giấu phía sau nhà vợ của bị cáo Trần Thành C tại ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, huyện T đã bị mất. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Đối với bình xịt hơi cay của bị cáo Nguyễn Hoàng B sử dụng sau khi thực hiện các vụ cướp giật tài sản bị cáo đã giấu trên chồng ghế gỗ gần cổng nhà anh Trịnh Ngọc Duy L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Đối với các sợi dây chuyền vàng sau khi cướp giật được, các bị cáo đã bán tại tiệm vàng K thuộc ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, T. Sau khi mua số vàng trên thì anh P (chủ tiệm vàng) đã nấu, tái chế số vàng trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không thu hồi được.

Trách nhiệm dân sự: Anh Trần Hoàng K yêu cầu các bị cáo H, H, H1, B bồi thường số tiền 17.680.000 đồng (mười bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng) nhưng các bị cáo chưa bồi thường số tiền trên. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, 585, 587 và Điều 589 Bộ luật dân sự đề nghị Tòa tuyên bị cáo H, H1, H, B bồi thường cho anh K số tiền 17.680.000 đồng.

Gia đình các bị cáo Phạm Quốc Anh H và Thân Thế H đã bồi thường số tiền 44.000.000 đồng cho anh Đoàn Thanh N. Anh N đã nhận đủ số tiền trên và đã làm đơn bãi nại.

Gia đình các bị cáo Phạm Quốc Anh H và Trần Thành C đã bồi thường số tiền 11.000.000 đồng cho anh V. Anh V đã nhận số tiền trên và đã làm đơn bãi nại.

Gia đình các bị cáo Phạm Quốc Anh H và Trần Thành C đã bồi thường số tiền 25.000.000 đồng cho anh Hoàng Hữu Đ. Anh Đ đã nhận đủ số tiền và đã làm đơn bãi nại.

Gia đình bị cáo Phạm Quốc Anh H và Thân Thế H đã bồi thường số tiền:

12.500.000 đồng cho anh Lê Chí S. Anh S đã nhận đủ số tiền và đã làm đơn bãi nại.

Do các bị cáo H1 và B chưa cướp giật được tài sản của anh C nên anh C không yêu cầu các bị cáo H1 và B bồi thường dân sự.

Đối với một số vụ cướp giật chưa tìm được bị hai Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện T tách ra làm rõ xử lý sau.

Đối với chủ tiệm vàng K và chủ tiệm vàng Liên Th do không biết các bị can bán vàng do cướp giật mà có nên không có cơ sở để xử lý Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị xử phạt bị cáo H, bị cáo H mức án từ 07 năm đến 08 năm tù; bị cáo B, bị cáo H1 mức án từ 06 năm đến 07 năm tù; bị cáo C mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

- Bị hại Lê Chí S: Không yêu cầu bồi thường gì thêm và cũng không có yêu cầu gì.

- Các bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Các bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại anh K, anh V, anh Đ, anh C, anh N: Đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra và không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt. [2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo ra trước tòa, cho thấy các bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng thời gian từ ngày 28/02/2022 đến ngày 15/4/2022, trên địa bàn huyện T và huyện Long Thành, tỉnh Đ, Phạm Quốc Anh H, Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B và Trần Thành C sử dụng xe mô tô xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter 135, màu xanh, biển số: 60B8- xxxxx, xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng đỏ, gắn biển số giả 60B8-xxxxx và xe môtô nhãn hiệu Honda Winner, màu xanh chưa rõ biển số thực hiện 06 vụ cướp giật tài sản (dây chuyền vàng) trong đó: Phạm Quốc Anh H tham gia cướp giật 05 vụ với tổng trị giá 128.676.000 đồng, Thân Thế H thực hiện 03 vụ cướp giật với tổng trị giá 89.068.000 đồng, Thân Thế H1 và Nguyễn Hoàng B tham gia 02 vụ cướp giật với tổng trị giá 89.356.000 đồng và Trần Thành C tham gia 02 vụ cướp giật với tổng trị giá 39.625.000 đồng. Trong khi thực hiện hành vi cướp giật dây chuyền của anh Trần Hoàng K thì Phạm Quốc Anh H, Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B dùng bình xịt hơi cay để ngăn cản anh K đuổi theo. Bị cáo Thân Thế H chưa chấp hành xong (phần bồi thường dân sự) theo Bản án số 30/2015/HSST ngày 19/03/2015 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng nên áp dụng thêm tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”.

Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của các bị cáo Phạm Quốc Anh H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B đã phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm c, d, đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Thân Thế H đã phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm c, d, đ, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Trần Thành C đã phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương, là người trẻ tuổi nhưng các bị cáo không tìm công việc làm lương thiện lại liên tiếp, táo bạo thực hiện các hành vi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu sài; các bị cáo H, H1, H, C có nhân thân xấu nay lại phạm tội rất nghiêm trọng; từ đó thể hiện các bị cáo là người coi thường pháp luật nên cần phải xử phạt nghiêm mới răn đe được bị cáo và phòng ngừa chung.

Về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo là đồng phạm nhưng ở mức độ giản đơn, hưởng lợi bằng nhau, tuy nhiên cũng xét bị cáo H thực hiện 05/06 vụ cướp giật, bị cáo H khởi xướng và các bị cáo còn lại giúp sức tích cực, bị cáo H thực hiện 03/06 vụ cướp và có thêm tình tình tái phạm nguy hiểm nên vai trò và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hơn các bị cáo còn lại.

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội nhiều lần theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Trần Thành C vừa chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/6/2020 tại trại giam Xuân Lộc, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức án cho các bị cáo. [4] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter 135, màu xanh, biển số: 60B8- xxxxx của bị cáo Phạm Quốc Anh H sử dụng để thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

Đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng đỏ, gắn biển số giả 60B8-xxxxx và biển số giả: 60B8- xxxxx do bị cáo H sử dụng và bình xịt hơi cay bị cáo B sử dụng không thu hồi được.

Đối với xe môtô nhãn hiệu Honda Winner, màu xanh không rõ biển số bị cáo Thân Thế H1 mượn của Nguyễn Đình Minh Th. Hiện nay chưa làm việc được với Thuận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tách ra điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với các sợi dây chuyền vàng sau khi cướp giật được, các bị cáo đã bán tại tiệm vàng K thuộc ấp Bắc Hòa, xã Bắc Sơn, T. Sau khi mua số vàng trên thì anh Ph (chủ tiệm vàng) đã nấu, tái chế số vàng trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện T không thu hồi được.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Anh Đoàn Thanh N, anh V, anh Hoàng Hữu Đ, anh Lê Chí S đã nhận được tiền bồi thường và làm đơn bãi nại nên không xem xét.

Do các bị cáo H1 và B chưa cướp giật được tài sản của anh C nên anh C không yêu cầu các bị cáo H1 và B bồi thường dân sự.

Anh Trần Hoàng K yêu cầu các bị cáo H, H, H1, B bồi thường số tiền 17.680.000 đồng (mười bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng), tại phiên tòa các bị cáo đồng ý mỗi người bồi thường cho anh K số tiền là 4.420.000 đồng, nên ghi nhận ý kiến này của các bị cáo.

[6] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo H1, H, B, H phải chịu thêm án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c, d, đ khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc Anh H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc Anh H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2022.

Xử phạt: Bị cáo Thân Thế H1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2022.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng B 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2022.

2. Căn cứ điểm c, d, đ, i khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Thân Thế H phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Thân Thế H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2022.

3. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trần Thành C phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thành C 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2022.

4. Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe Honda hiệu Yamaha Exciter 135, màu xanh biển số: 60B8- xxxxx Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/12/2022.

5. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, 585, 587 và Điều 589 Bộ luật dân sự buộc các bị cáo Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B, Phạm Quốc Anh H liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Trần Tuấn Kiệt mỗi bị cáo là 4.420.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, mà người phải thi hành án chưa thanh toán số tiền trên, thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất chậm trả được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

6. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B, Phạm Quốc Anh H, Trần Thành C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Thân Thế H, Thân Thế H1, Nguyễn Hoàng B, Phạm Quốc Anh H mỗi bị cáo phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

7. Các bị cáo, bị hại anh Lê Chí S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đoàn Thanh N, anh V, anh Hoàng Hữu Đ, anh Trần Hoàng K, anh Lê Minh C được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội cướp giật tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về