Bản án về tội cố ý gây thương tích số 26/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 17/04/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2023/TLST-HS, ngày 23 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS, ngày 03/4/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc Hải N, sinh ngày 28/9/2006.

Trú tại: Thôn Thượng Trì Ấp, xã Hoài Thượng, thị xã T, tỉnh B; trình độ văn hoá: 6/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1983 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1983; gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

2. Phạm Công H, sinh ngày 10/10/2006.

Trú tại: Khu phố Bùi X, phường Ninh X, thị xã T, tỉnh B; trình độ văn hoá: 8/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công X, sinh năm 1973 và bà Lê Thị H, sinh năm 1975; gia đình có 03 chị em, bị cáo là út.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).

Người bị hại: Nguyễn Văn V, sinh ngày 21/12/2006 (có mặt).

Trú tại: Khu phố Đại Tự, phường Thanh Khương, thị xã T, B.

Đại diện hợp pháp cho V: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1983 (cô ruột, có mặt). Trú tại: Đại Tự, Thanh Khương, T, B.

Đại diện hợp pháp của bị cáo N: Ông Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1954 (ông nội, có mặt).

Trú tại: Thôn Thượng Trì Ấp, xã Hoài Thượng, thị xã T, B.

Người bào chữa cho bị cáo N: Bà Đặng Thị H, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B (vắng mặt).

Đại diện hợp pháp của bị cáo H: Ông Phạm Công X, sinh năm 1973 (bố đẻ, có mặt). Trú tại: Bùi X, Ninh X, T, tỉnh B.

Người bào chữa cho bị cáo H: Bà Phan Thị Thu H, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09h30’ ngày 02/11/2022, Nguyễn Ngọc Hải N, Phạm Công H và Lê Nho P, sinh năm 2006 ở thôn Đ, xã Hoài Thượng, huyện T rủ nhau đến quán nước ở cổng trường THPT T số 2 để uống nước. Trước khi đi, N mang theo 01 con dao dạng dao bầu nhọn cất giấu trong người, bên trong lớp áo chống nắng màu xanh và bảo P đến đón N. P đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen, BKS 99F1 - xxxxx đến hội trường thôn Thượng Trì Ấp để đón N. Khi đến quán nước đối diện Trường THPT T số 2 thì N, P vào ngồi uống nước đợi H. Một lúc sau, H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 99F1 - xxxxx đến ngồi uống nước cùng N, P. Lúc này có Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô Wave màu đen, loại AF, BKS 99AF - xxxxx đến uống nước bàn bên cạnh N, H. Do trước đó H có mâu thuẫn với V nên khi thấy V vào quán uống nước, H nói với N: “thằng này trước bị tôi đuổi đánh rồi nó về nhắn tin cho tôi bảo gặp đâu đánh đấy”, lúc này N kéo khóa áo chống nắng đang mặc thì để lộ con dao N đang cất giấu trong người, H và P đều nhìn thấy. H bảo N: “đưa dao cho tôi”, N đưa dao cho H cầm để đánh V nhưng do thời điểm này có 02 thanh niên lạ đi vào quán, H sợ là bạn của V nên đưa dao trả lại cho N, N lại cất dao vào trong người. Ngồi uống nước được khoảng 15 phút thì V ra lấy xe đi về. Thấy vậy H ra lấy xe mô tô và bảo N ngồi sau xe đuổi theo V để đánh. N đi ra xe và gọi P: “có đi không” thì P nói: “không”. H điều khiển xe mô tô chở N đuổi theo phía sau V về hướng cầu Dâu, trên đường đuổi, N lấy con dao ra cầm ở tay trái. Khi đi đến vị trí trước cửa hàng Thế giới di động thuộc địa phận khu phố Khương Tự, phường Thanh Khương, thị xã T thì H điều khiển xe ép đầu xe của V dừng xe lại, N nhảy xuống lao về phía V, lúc này V vẫn ngồi trên xe, 2 chân chống xuống mặt đường. N cầm dao tay trái vung lên chém nhiều nhát vào vùng hai cánh tay và bả vai trái của V, trong đó có nhát trúng, nhát không, V không đánh trả mà ngồi im trên xe. Khi thấy V bị rách áo và chảy máu, N dừng lại không chém nữa và lên xe. H điều khiển xe chở N quay lại quán nước ban đầu. N xuống xe gọi P đi về, P thanh toán tiền nước rồi lấy xe chở N về nhà. V được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện T để cấp cứu và điều trị đến ngày 11/11/2022 thì ra viện.

Ngày 02/11/2022, chị Nguyễn Thị C là cô ruột của V đã làm đơn trình báo Công an.

Ngày 03/11/2022 Nguyễn Ngọc Hải N đến Công an phường Thanh Khương và giao nộp:

+ 01 con dao bầu nhọn, có chiều dài 30cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm, chuôi dao làm bằng gỗ, bản rộng nhất 5,3cm.

+ 01 áo khoác màu xanh xám, có mũ đội đầu, phía trước ngực bên trái có in dòng chữ Fashion.

+ 01 quần bò ngố màu đen trắng, trên ống quần có in các chữ XL.

Phạm Công H giao nộp: 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 99F1-xxxxx.

Nguyễn Văn V giao nộp: 03 mảnh vải màu trắng, trên các mảnh vải có bám dính các chất màu đỏ tươi.

Tại Giấy chứng nhận thương tích số: 73/CN-TTYT ngày 23/11/2022 của Trung tâm y tế huyện T, xác định thương tích của Nguyễn Văn V lúc vào viện:

+ 01 vết thương cánh tay phải kích thước 15x3x1cm, bờ sắc gọn, chảy máu, kiểm tra có đứt phần cơ tam đầu cánh tay phải.

+ 01 vết thương cánh tay trái kích thước 3x1x1 cm, bờ sắc gọn, chảy máu.

+ 01 vết thương vai trái kích thước 15x3x1 cm, bờ sắc gọn, chảy máu, kiểm tra có đứt 1 phần cơ vai trái.

Ngày 24/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an thị xã T đã ra Quyết định số: 241/QĐ trưng cầu Viện khoa học hình sự - BCA giám định tỉ lệ phần trăm thương tích của Nguyễn Văn V và cơ chế hình thành vết thương.

Tại bản kết luận giám định pháp lý về thương tích số: 8130/KL-KTHS ngày 05/12/2023 của Viện khoa học hình sự - BCA, kết luận:

“…- Sẹo mặt sau vai trái, kích thước lớn, không ảnh hưởng chức năng: 03% (áp dụng nguyên tắc 1 và Mục I.3, Chương 8).

- Sẹo mặt ngoài 2/3 dưới cánh tay phải kích thước lớn, không ảnh hưởng chức năng: 03% (áp dụng nguyên tắc 1 và Mục I.3, Chương 8).

- Sẹo mặt sau ngoài 1/3 dưới cánh tay trái, kích thước trung bình, không ảnh hưởng chức năng: 02% (áp dụng nguyên tắc 1 và Mục I.2, Chương 8).

Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn V tại thời điểm giám định là: 08% (tám phần trăm).

Cơ chế hình thành thương tích: Các tổn thương của anh Nguyễn Văn V do vật sắc gây ra”.

Bản cáo trạng số: 19/CT-VKSTT, ngày 21/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố Nguyễn Ngọc Hải N về tội “cố ý gây thương tích”, theo điểm a, c, i khoản 1, điều 134 Bộ luật hình sự; Phạm Công H về tội “cố ý gây thương tích”, theo điểm a, c khoản 1, điều 134 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T duy trì quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Ngọc Hải N và Phạm Công H về tội “cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a, c, i khoản 1, điều 134; điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, điều 51; điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt N từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Áp dụng điểm a, c khoản 1, điều 134; điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51; điểm 1, khoản 1, điều 52; điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt H từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; điều 585; điều 590 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo N, H phải liên đới bồi thường cho Nguyễn Văn V số tiền từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ, mỗi bị cáo phải bồi thường từ 10.000.000đ đến 12.500.000đ.

Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 con dao bầu nhọn, chiều dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm, bản rộng nhất 5,3cm, chuôi dao bằng gỗ.

+ 01 áo khoác màu xanh xám, có mũ đội đầu, phía trước ngực bên trái có in dòng chữ Fashion; 01 quần bò ngố màu đen trắng, trên ống quần có in các chữ XL.

+ 03 mảnh vải màu trắng, trên các mảnh vải có bám dính các chất màu đỏ.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc Hải N vắng mặt nhưng có gửi bản bào chữa: Nhất trí với cáo trạng đã truy tố bị cáo N là đúng người, đúng tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tác động đến gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho người bị hại số tiền 10.000.000đ, bị cáo là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, điều 51; điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo N mức án thấp nhất.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Công H phát biểu: Nhất trí với cáo trạng đã truy tố bị cáo H là đúng người, đúng tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tác động đến gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho người bị hại số tiền 10.000.000đ, bị cáo là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế, ông nội bị cáo là Liệt sĩ đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51; điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H mức án thấp nhất.

Các bị cáo nhận tội, các bị cáo và đại diện hợp pháp của các bị cáo đồng ý với bản bào chữa và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã T, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, của các nhân chứng, cũng như thương tích trên người bị hại và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09h45’ ngày 02/11/2022, tại khu vực trước cửa hàng Thế giới di động thuộc địa phận khu phố Khương Tự, phường Thanh Khương, thị xã T. Phạm Công H điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Ngọc Hải N đã có hành vi ép đầu xe mô tô của Nguyễn Văn V buộc V phải dừng lại. N đã có hành vi dùng 01 con dao bầu chém trúng vào vùng hai cánh tay và bả vai trái của Nguyễn Văn V làm V bị tổn hại 08% sức khỏe. Chị Nguyễn Thị C là cô ruột của V có đơn đề nghị xử lý N, H theo pháp luật. Hành vi của Nguyễn Ngọc Hải N và Phạm Công H đã phạm tội “cố ý gây thương tích”. Trong hành vi gây thương tích cho cháu V, bị cáo N đã sử dụng 01 dao bầu nhọn, dài 30cm, lưỡi dao dài 20cm, bản rộng nhất 5,3cm, chuôi dao làm bằng gỗ làm công cụ phạm tội, đây là loại hung khí nguy hiểm được quy định tại điểm a, khoản 1, điều 134 Bộ luật hình sự. Bị cáo N không có mâu thuẫn với V, chỉ vì bị cáo H trước đó có mâu thuẫn với V mà N đã cố tình gây sự để phạm tội, bởi vậy bị cáo N phạm tội thuộc tình tiết có tính chất côn đồ như Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thị xã T, xâm phạm đến sức khoẻ của người khác, dư luận xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét về vai trò các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này bị cáo N giữ vai trò chính, là người chuẩn bị công cụ phạm tội cũng là người trực tiếp gây thương tích cho V, do vậy khi quyết định hình phạt, cần buộc bị cáo N phải chịu trách nhiệm nặng hơn bị cáo H.

Xét thấy, bản thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải; đã tác động đến gia đình tự nguyện bồi thường một phần cho người bị hại nhằm khắc phục hậu quả; đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bị cáo H có ông nội là Liệt sĩ, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo và áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị C là cô ruột của V yêu cầu bị cáo N, H phải bồi thường: Tiền viện phí, tiền thuốc trong thời gian điều trị, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ, tiền mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 50.000.000đ. Các bị cáo và đại diện hợp pháp của các bị cáo đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Hội đồng xét xử thấy yêu cầu của người bị hại là cao. Căn cứ vào điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì cần chấp nhận cho Nguyễn Văn V những chi phí hợp lý gồm:

Tiền viện phí: 1.200.000đ.

Tiền thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ: 5.000.000đ. Tiền xe đi lại, xe đi giám định: 1.500.000đ.

Chi phí giám định thương tật: 1.500.000đ Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ: 5.000.000đ.

Tiền mất thu nhập của người chăm sóc: 10 ngày x 300.000đ = 3.000.000đ. Tiền tổn thất tinh thần: 5 tháng lương tối thiểu x 1.490.000đ = 7.450.000đ.

Tổng cộng là 24.650.000đ. Cần buộc các bị cáo phải bồi thường cho Nguyễn Văn V tổng số tiền là 24.650.000đ. Xc nhận gia đình bị cáo N đã nộp 10.000.000đ; gia đình bị cáo H đã nộp 10.000.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T để bồi thường, các bị cáo còn phải bồi thường tiếp 4.650.000đ, mỗi bị cáo phải bồi thường 2.325.000đ.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 con dao bầu nhọn, chiều dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm, bản rộng nhất 5,3cm do N đã sử dụng để gây thương tích cho V, xét thấy đây là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

Cơ quan điều tra có thu giữ: 01 áo khoác màu xanh xám, có mũ đội đầu, phía trước ngực bên trái có in dòng chữ Fashion; 01 quần bò ngố màu đen trắng, trên ống quần có in các chữ XL của bị cáo N, xét thấy đây là quần áo bị cáo sử dụng để phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 03 mảnh vải màu trắng, trên các mảnh vải có bám dính các chất màu đỏ tươi, xét thấy không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 99F1-xxxxx,đây là xe là của ông Phạm Công X là bố đẻ H, ông X không biết H sử dụng chiếc xe trên vào mục đích phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông X chiếc xe trên là phù hợp pháp luật.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Hải N, Phạm Công H phạm tội “cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, c, i, khoản 1, điều 134; điều 65; điểm b, i, s khoản 1, điều 5 điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Hải N 8 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã Hoài Thượng, thị xã T, tỉnh B nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.

Áp dụng điểm a, c, khoản 1, điều 134; điều 65; điểm b, i, s khoản 1, 2 điều 51;

điều 91; điều 101 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Phạm Công H 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND phường Ninh X, thị xã T, tỉnh B nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự; điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; điểm a, c, khoản 2, điều 106; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Hải N và Phạm Công H phải liên đới bồi thường cho Nguyễn Văn V tổng số tiền 24.650.000đ. (Xc nhận gia đình bị cáo N đã nộp 10.000.000đ tại biên lai số 0004313, ngày 14/4/2023. Xc nhận gia đình bị cáo H đã nộp 10.000.000đ tại biên lai số 0004312, ngày 14/4/2023 và biên lai số 0004314, ngày 17/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T). Các bị cáo còn phải bồi thường tiếp 4.650.000đ, mỗi bị cáo phải bồi thường 2.325.000đ.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 con dao bầu nhọn, chiều dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm, bản rộng nhất 5,3cm, chuôi dao bằng gỗ.

+ 01 áo khoác màu xanh xám, có mũ đội đầu, phía trước ngực bên trái có in dòng chữ Fashion; 01 quần bò ngố màu đen trắng, trên ống quần có in các chữ XL.

+ 03 mảnh vải màu trắng, trên các mảnh vải có bám dính các chất màu đỏ.

Mỗi cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bào chữa của các bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về