TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 07/2022/HS-PT NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 133/2021/TLPT-HS ngày 07 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo Huỳnh Văn T, Trần Văn Đ, do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
1. Họ và tên: Trần Văn Đ, sinh ngày 26/6/1998 tại tỉnh Cà Mau Nơi cư trú: huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Lâm Thị M; vợ: Lê A Mu và có 01 người con (sinh năm 2018); tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam; Có mặt.
2. Họ và tên: Huỳnh Văn T, sinh năm 1975 tại tỉnh Cà Mau Nơi cư trú: huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Phước V (Huỳnh Phát V) và bà Huỳnh Thị D; vợ Trần Thị L; con: 02 người (Lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 1997); tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam; Có mặt.
- Bị hại: Ông Dương Văn U, sinh ngày 25/10/1969. Nơi cư trú: huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 17 tháng 02 năm 2021 tại nhà ông Võ Thanh M thuộc ấp Tân Lập, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau có tổ chức nhậu, gồm: Võ Thanh M, Lê Hồng R (vợ M), Huỳnh Văn T, Trần Thị L (vợ T), Dương Văn U, Trần Thị Th (vợ U). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Trần Văn Đ chạy xe đến và cùng nhậu. Trong lúc nhậu, Th và L hát Karaoke, T nói với U cho hát karaoke chung với Th một bài (chưa hát). Sau đó U và T nói chuyện qua lại rồi dẫn đến cự cải với nhau. U nhìn Đ chửi thề. T dùng tay phải câu cổ U rồi dùng tay trái còn lại đánh vào mắt trái của U làm U và T ngã ngữa xuống đất. M can ngăn kéo T ra, T đi về.
Thấy U té còn đang nằm dưới đất, Đ nhớ lại lúc nảy U nhìn Đ và chửi thề nên Đ cầm ly (ly uống bia có quay) bằng tay phải xông đến đánh một nhát phần đáy ly trúng vào vùng mũi và má của U thì ly rơi khỏi tay Đ. Đ tiếp tục dùng tay đánh vào mặt, trán của U thì được mọi người can ngăn.
Ngày 08/4/2021 Dương Văn U yêu cầu xử lý hành sự đối với Trần Văn Đ và Huỳnh Văn T.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 168/TgT-21 ngày 11/5/2021, Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau, kết luận:
- 01 vết sẹo từ trán xuống đầu chân mày trái, kích thước 1,5cm x 0,1 cm. Tỷ lệ 03%.
- 01 vết sẹo má trái cạnh xương mũi bên trái, kích thước 01cm x 0,1cm. Tỷ lệ 03%.
- Mắt trái: Chấn thương dập nhãn cầu – Rơi thủy tinh thể vào dịch kính, bong võng mạc (thị lực <1/10). Tỷ lệ 25%.
- Vỡ thành trước xoang hàm trái. Tỷ lệ 07%.
- Gãy xương mũi. Tỷ lệ 09%.
Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 40%.
Công văn số 56/CV-TTPY ngày 20/7/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau xác định: Tổng tỷ lệ 04 (bốn) vết thương chân mày, cạnh xương mũi trái, thành trước xoang hàm, xương mũi là 20%.
Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, quyết định:
Căn cứ khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 590 Bộ luật Dân sự. Khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a, b khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 02 (hai) năm tù về tội "Cố ý gây thương tích" - Bị cáo Huỳnh Văn T 01 (một) năm tù về tội "Cố ý gây thương tích".
- Buộc Trần Văn Đ, Huỳnh Văn T mỗi bị cáo bồi thường cho Dương Văn U 33.357.000đ; Bị cáo Đ đã giao bị hại 2.600.000đ, còn phải tiếp tục bồi thường 30.757.000đ; Bị cáo T đã nộp đủ 33.357.000đ (bị hại đã nhận 7.500.000đ, bị cáo T đã nộp tại chi cục Thi hành án 25.857.000đ).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 04 tháng 11 năm 2021, bị cáo Trần Văn Đ có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Ngày 04 tháng 11 năm 2021, bị cáo Huỳnh Văn T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Ngày 08 tháng 11 năm 2021, bị hại Dương Văn U có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T và bị cáo Đ, xin cho các bị cáo được hưởng án treo. Về bồi thường bị hại và các bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho bị hại 100.000.000đ (mỗi bị cáo bồi thường 50.000.000đ) đã bồi thường xong; không yêu cầu Tòa án xem xét.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo và bị hại; sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo theo hướng giảm cho mỗi bị cáo từ 03 – 06 tháng tù.
Trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét.
Các bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo.
Bị hại yêu cầu Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng án treo; về dân sự các bị hại đã bồi thường xong chỉ yêu cầu được nhận số tiền 25.857.000đ mà bị cáo T đã nộp tại Chi cục Thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Khoảng 21 ngày 17/02/2021 tại nhà ông Võ Thanh M thuộc ấp Tân Lập, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, bị cáo T dùng tay phải câu cổ bị hại U, tay trái còn lại đánh vào mắt trái anh U gây thương tích cho Út là 25%. Thương tích của anh U do bị cáo T gây ra bằng tay.
Thấy U bị Thủ đánh té còn đang nằm dưới nền đất, Đ nhớ lại lúc nãy U nhìn Đ mà chửi thề nên Đ cầm ly thủy tinh (ly dùng uống bia) đi đến đánh một nhát vào vùng mũi và mặt, tiếp tục dùng tay đánh vào mặt, trán của anh U gây thương tích 20%. Bị cáo Đ gây thương tích cho bị hại bằng hung khí là ly thủy tinh.
Hành vi của bị cáo T, bị cáo Đ là hành vi cố ý gây thương tích. Bị cáo T gây thương tích cho anh U xuất phát từ nguyên nhân mâu thuẫn trong việc bị cáo T xin được hát karaoke chung với vợ của U. Còn bị cáo Đ gây thương tích cho bị hại U xuất phát từ nguyên nhân anh U nhìn bị cáo Đ chửi thề. Hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính độc lập với nhau, không có tính chất đồng phạm. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo, bị hại:
[2.1]. Về trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sức khỏe người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự ở địa phương.
Đối với bị cáo Trần Văn Đ gây thương tích cho bị hại 20%. Án sơ thẩm đã xác định bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại cho bị hại; gia đình có công với cách mạng theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là phù hợp. Sau khi án sơ thẩm xử bị cáo và bị hại đã thỏa thuận thống nhất bị cáo bồi thường thêm số tiền cho bị hại nhiều hơn số tiền mà án sơ thẩm tuyên và bị cáo đã bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bị hại và bị hại kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo. Tại phiên tòa bị hại yêu cầu Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là những tình tiết mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm. Song, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, có tính chất hung hăn xem thường sức khỏe người khác. Bị cáo phạm tội trong trường hợp hết sức nguy hiểm nên chỉ chấp nhận giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với bị cáo Huỳnh Văn T gây thương tích cho bị hại 25%. Án sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình có công với cách mạng theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là phù hợp. Sau khi án sơ thẩm xử bị cáo và bị hại đã thỏa thuận thống nhất bị cáo bồi thường thêm số tiền cho bị hại nhiều hơn số tiền mà án sơ thẩm buộc bồi thường và bị cáo đã bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bị hại. Bị hại kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo, tại phiên tòa bị cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm. Đồng thời bị cáo bị khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại; Bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 – Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bị cáo được hưởng án treo.
[2.2]. Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa bị cáo và bị hại xác định sau khi xét xử sơ thẩm giữa các bị cáo và bị hại đã thống nhất thỏa thuận số tiền các bị cáo bồi thường là 100.000.000 đồng (mỗi bị cáo 50.000.000đ). Số tiền mà các bị cáo thỏa thuận nhiều hơn số tiền mà án sơ thẩm buộc các bị cáo bồi thường và các bị cáo đã bối thường đủ cho bị hại nên bị hại không yêu cầu các bị cáo phải tiếp tục bồi thường thêm khoảng tiền nào nữa. Coi như số tiền án sơ thẩm buộc bị cáo Trần Văn Đ còn phải tiếp tục bồi thường 30.757.000đ thì sau khi án sơ thẩm xử bị cáo Đ đã bồi thường xong. Nay bị hại chỉ yêu cầu được nhận số tiền 25.857.000đ mà bị cáo T đã nộp tại Chi cục Thi hành án huyện Trần Văn Thời (Biên lai thu tiền số 0001270 ngày 26/10/2021 và Biên lai số 0001271 ngày 27/10/2021).
Do đó, phần trách nhiệm dân sự được xác định: Các bị cáo đã bồi thường đủ số tiền thiệt hại cho bị hại và bị hại đã nhận đủ và bị hại không yêu cầu gì thêm. Đối với số tiền 25.857.000đ mà bị cáo T đã nộp tại Chi cục Thi hành án huyện Trần Văn Thời thì giao trả cho bị hại Dương Văn U.
[3]. Do chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và bị hại sửa án sơ thẩm về hình phạt nên các bị cáo, bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Do số tiền bồi thường các bị cáo đã bồi thường xong và hiện nay bị hại không yêu cầu các bị báo phải bồi thường thêm khoản tiền nào cũng như không yêu cầu các bị cáo phải giao trả khoản tiền nào nên các bị cáo không phải chịu án phí dân sự.
[4]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị không xem xét đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn Đ, bị cáo Huỳnh Văn T, bị hại Dương Văn U; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo;
thời gian thử thách 02 (Hai) năm về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 19/01/2022).
Giao bị cáo Huỳnh Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Huỳnh Văn T được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
2. Về dân sự.
Bị hại Dương Văn U được nhận số tiền 25.857.000 đồng (Hai mươi lăm triệu tám trăm năm mươi bảy ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
3. Về án phí.
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn Đ, bị cáo Huỳnh Văn T mỗi bị cáo phải chịu án phí 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
- Các bị cáo không phải chịu án phí dân sự.
- Các bị cáo, bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm.
4. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị không xem xét đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 07/2022/HS-PT
Số hiệu: | 07/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về