Bản án về ly hôn và nuôi con chung số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG 

Ngày 26 tháng 01 năm 2022 tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 190/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022. Giữa:

Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995.

Địa chỉ: thôn 3, xã X, thành phố Móng Cái, Quảng Ninh.

Bị đơn: anh Trần Việt A, sinh năm 1994.

Nơi ĐKHK: thôn 3, xã X, thành phố Móng Cái, Quảng Ninh

Nơi cư trú: Trại giam Công an tỉnh Quảng Ninh, phân trại số 2, thôn Đ, xã T, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Trần Việt A đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, thành phố Móng Cái năm 2015 trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh A hay chơi cờ, bạc, uống rượu, không quan tâm đến kinh tế gia đình, ngoài ra anh A còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác và nghiện ma túy. Hiện tại anh A đang phải chấp hành án về tội mua bán trái phép chất ma túy 07 năm. Nay chị thấy tình cảm không còn chị đề nghị được ly hôn anh A.

Về con chung: Chị và anh A sinh được 01 con chung là Trần Quang B, sinh ngày 19/8/2015, hiện đang ở với chị. Chị đề nghị được nuôi con chung đến tuổi thành niên. Không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung và khoản nợ chung: Không có Tài liệu, chứng cứ chị H cung cấp gồm các giấy tờ liên quan đến nhân thân của các đương sự.

Quan điểm của anh A trong quá trình giải quyết thể hiện:

Về thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn và nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn như chị A trình bày là đúng, ngoài ra nguyên nhân nữa là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế nên xảy ra những xô sát, hiện tại anh đang phải chấp hành án phạt tù lâu dài nên việc chị H xin ly hôn anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh xác nhận anh và chị H có 01 con chung như chị H trình bày là đúng, anh đồng ý nhường quyền nuôi con cho chị H Về tài sản chung và khoản nợ chung không có.

Anh A không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì.

Tại biên bản xác minh ngày 28/12/2021 đại diện chính quyền địa phương xác nhận quá trình chung sống tại địa phương vợ chồng chị H và anh A thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh A nghiện ma túy, không quan tâm đến vợ con, hiện tại chị H đã về nhà mẹ đẻ sinh sống còn anh A đang phải chấp hành án phạt tù tại trại giam.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Về việc vắng mặt của các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt được theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án vẫn xét xử là đúng quy định. Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56; Điều 58; Khoản 1, 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83: Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị H được ly hôn anh A. Về con chung, đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi thành niên Về cấp dưỡng nuôi con chung đương sự không có yêu cầu nên không xét.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Việt A là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chị H có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn và yêu cầu nuôi con chung thuộc quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Móng Cái, nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về sự vắng mặt của các đương sự, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử

[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

[2.1] Về tình cảm: Theo tài liệu, chứng cứ do chị H cung cấp thì cuộc hôn nhân của chị H và anh A là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, chị H và anh A sống hạnh phúc được 02 năm, đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn, cả chi H và anh A đều thừa nhận nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, bản thân anh A không quan tâm đến vợ con, anh A hay uống rượu, chơi bài bạc và nghiệm ma túy nên dẫn đến cuộc sống vợ chồng không còn tình cảm như trước, không còn sự quan tâm lẫn nhau và bản thân anh A và chị H đều tự nguyện ly hôn. Do vậy, Hồi đồng xét xử thấy việc tự nguyện ly hôn của chị H và anh A là hoàn toàn tự nguyện và đúng pháp luật nên ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của chị H và anh A.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh A có 01 con chung hiện đang được chị H chăm sóc và nuôi dưỡng, anh A đồng ý nhường quyền nuôi con chung cho chị H, để chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến tuổi thành niên. Hội đồng xét xử thấy tiếp tục giao cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là phù hợp

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không có yêu cầu nên không xét.

[4] Về tài sản chung và khoản nợ chung: Không có nên không xét

[5] Về án phí: Chị H chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 1, Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 56; Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc ly hôn và nuôi con chung Xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Trần Việt A.

Giao con chung là Trần Quang B, sinh ngày 19/8/2015 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh A không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không trực tiếp nuôi dưỡng mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007535 ngày 19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con chung số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về