Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 205/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Biện H, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt)

Bị đơn: Ông Đỗ Điền T, sinh năm 1982; địa chỉ: ấp A1, xã L1, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 23/6/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Biện H trình bày:

Vào năm 2000, bà và ông Đỗ Điền T kết hôn với nhau, kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 07/5/2002. Sau khi kết hôn, bà và ông Đỗ Điền T sống hạnh phúc đến tháng 3/2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông T gia trưởng, thường xuyên chửi bà và đã ly thân một thời gian. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ Điền T Trong quá trình chung sống, bà và ông Đỗ Điền T có 03 người con chung tên Đổ D, sinh ngày 14/9/2001 (đã trường thành), Đổ Y, sinh ngày 06/8/2003 (đã trưởng thành), Đổ K, sinh ngày 04/6/2007. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 và bà không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi. Đối với cháu Đổ D, sinh ngày 14/9/2001 (đã trường thành), Đổ Y, sinh ngày 06/8/2003 (đã trưởng thành) không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Theo như bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ông Đỗ Đin T trình bày:

Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về thủ tục kết hôn, nguyên nhân dẫn đến ly hôn. Nay trước yêu cầu của bà H, ông có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Không đồng ý ly hôn với bà Biện H vì còn thương vợ, thương con.

Về con chung: Nếu như ly hôn ông đồng ý giao con chung là cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng và ông không cấp dưỡng nuôi. Đối với cháu Đổ D, sinh ngày 14/9/2001 (đã trường thành), Đổ Y, sinh ngày 06/8/2003 (đã trưởng thành) không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Biện H + Về con chung: Giao con chung tên Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng và ông T không cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Bà Biện H và ông Đỗ Điền T có đăng ký kết hôn vào ngày 27/02/2007 tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Hôn nhân của ông bà tuân thủ các quy định từ Điều 9 đến Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Biện H và ông Đỗ Điền T là hợp pháp.

Bà Biện H vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án xin được ly hôn với ông Đỗ Điền T và ông Đỗ Điền T không thống nhất ly hôn với bà Biện H. Xét yêu cầu của bà Biện H Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình chung sống do hai bên bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, dẫn đến mâu thuẫn, bất đồng về những sinh hoạt trong cuộc sống. Từ khi nguyên đơn chính thức yêu cầu xin ly hôn cho đến nay, Tòa án đã gửi thông báo về việc thụ lý cho ông Đỗ Điền T và giữa bà Biện H, ông Đỗ Điền T từ khi sống ly thân vào năm 2019 cho đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng và phù hợp với biên bản xác minh ngày 14/7/2022 về tình trạng hôn nhân giữa bà Biện H, ông Ông Đỗ Điền T của Tòa án nhân dân huyện Long Phú. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Biện H và ông Đỗ Điền T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Biện H được ly hôn với ông Đỗ Điền T.

[2] Về con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007. Ông Trung đồng ý giao cháu K cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu Thi; đồng thời tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu K có sự chứng kiến của ông T, bà H cháu Kcó nguyện vọng sống chung với bà H và để ổn định cuộc sống, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H là người được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 là có căn cứ.

Ông Trung có quyền thăm nom cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 không ai được cản trở theo khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Giang cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 theo khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà Biện H không yêu cầu ông Đỗ Điền T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống bà Biện H và ông Đỗ Điền T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Trong quá trình chung sống bà Biện H và ông Đỗ Điền T không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Bà Biện H phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Giang phí tòa án.

[7] Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Biện H và ông Đỗ Điền T được ly hôn.

2. Về con chung: Bà Biện H là người được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 Ông Đỗ Điền T có quyền thăm nom cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007 không ai được cản trở.

Bà Biện H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đổ K, sinh ngày 04/6/2007.

3. Về cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Không có và các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về nợ chung: Không có và các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Biện H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004566 ngày 23/6/2022 của Chi cục Khành án dân sự huyện Long Phú. Như vậy, bà Biện H đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Đỗ Điền T không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

7. Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:80/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về