Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 77/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 77/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 202/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/4/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/7/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18/8/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Thị Bình M, sinh năm: 1995 (Có mặt).

* Bị đơn: Anh Phan Hoàng N, sinh năm: 1988 (Vắng mặt lần 2 không có lý do) Cùng địa chỉ: Ấp TH, xã TL, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo nội dung đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Thị Bình M trình bày và yêu cầu như sau:

- Về hôn nhân: Chị Thị Bình M anh Phan Hoàng N chung sống với nhau từ năm 2013. Trước khi chung sống vợ chồng có quen biết nhau trước, sau đó cả hai tự nguyện tiến tới hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán ở địa phương và có đi thực hiện việc đăng ký kết hôn đã được Uỷ ban nhân dân xã ĐT, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08/5/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống và lo làm ăn cho đến đầu năm 2018 thì anh chị phát sinh mâu thuẫn và ly thân cho đến nay.

Nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng thường xuyên cự cãi và đánh nhau, luôn bất đồng quan điểm với nhau không thể hàn gắn được. Ngoài ra, anh N thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu không quan tâm đến vợ con. Do đó, chị M dẫn 02 con về nhà mẹ ruột chị ở cho đến nay. Từ khi ly thân cho đến nay, giữa chị và anh N không có liên lạc với nhau và anh N cũng không đến thăm con. Do xét thấy, tình cảm của chị đối với anh N không còn nữa và mâu thuẫn của anh chị không thể hàn gắn được, hôn nhân không thể kéo dài nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

- Về con chung: Chị M xác nhận, giữa chị và anh N có 02 con chung là cháu Phan Hoàng M1, sinh ngày 29/01/2014 và Phan Hoàng Q, sinh ngày 29/3/2017. 02 cháu đang chung sống cùng chị từ khi chị và anh N ly thân đến nay. Nay ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ: Chị M xác nhận, trong quá trình chung sống, giữa chị và anh N không có phát sinh tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phan Hoàng N không có trình bày.

* Tại phiên tòa:

- Chị M yêu cầu: Được ly hôn với anh Phan Hoàng N, yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con không yêu cầu anh N cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung không có chị không yêu cầu giải quyết.

- Anh N: Vắng mặt.

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng: Đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thị Bình M và giao 02 con chung cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng. Buộc chị M chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (gọi tắt là HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Thị Bình M khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Phan Hoàng N là tranh chấp dân sự về hôn nhân và gia đình. Qua yêu cầu của đương sự trong vụ án được xác định mối quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Khi nguyên đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý vụ án giải quyết thì bị đơn đang cư trú và sinh sống tại ấp TH, xã TL, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét thấy, anh N đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần 2 không có lý do nên HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh N chung sống với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã ĐT, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08/5/2013 theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Xét yêu cầu của chị M về việc ly hôn với anh N. Trong quá trình giải quyết, chị Diễm cho rằng sau khi kết hôn và qua thời gian chung sống chị và anh N thường xuyên bất đồng quan điểm với nhau, luôn xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên anh chị đã ly thân từ năm 2018 đến nay không có liên lạc với nhau.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhằm động viên anh chị trở về chung sống, tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng chị M cương quyết ly hôn. Đồng thời, việc anh chị ly thân từ năm 2018 đến nay nhưng anh chị không tới lui để quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau là đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Ngoài ra, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt các thông báo đến anh N được biết nhưng đến nay anh N không có ý kiến bằng văn bản gửi đến Tòa án trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị M.

Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của chị M và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho chị M được ly hôn với anh N.

[3] Về quan hệ con chung: Theo lời trình bày của chị M, chị và anh N có 02 người con là Phan Hoàng M1 (sinh ngày 29/01/2014, giới tính nữ) và cháu Phan Hoàng Q (sinh ngày 29/3/2017, giới tính nam). Khi ly hôn, chị M yêu cầu được nuôi dưỡng 02 cháu cho đến khi 02 cháu đủ 18 tuổi.

HĐXX xét thấy, yêu cầu nuôi con của chị M là phù hợp với nguyện vọng của cháu Phan Hoàng M1 và thấy rằng từ khi chị M và anh N ly thân đến nay thì chị M là người trực tiếp nuôi cháu Phan Hoàng Q nên việc để cháu Q cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng sau khi anh chị ly hôn là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Q. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị M và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, tiếp tục giao 02 cháu Hoàng M1 và Hoàng Q cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, do chị M tự nguyện không yêu cầu anh N cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét. Nhưng khi cần thiết, chị M có quyền yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết, chị M xác định, không tranh chấp nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình): Buộc chị M phải chịu án phí với số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Thị Bình M được ly hôn với anh Phan Hoàng N.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Phan Hoàng M1 (sinh ngày 29/01/2014, giới tính nữ) và cháu Phan Hoàng Q (sinh ngày 29/3/2017, giới tính nam) cho chị M trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình): Buộc chị Thị Bình M chịu án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo lai thu số 0001248 ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang nên chị M không phải nộp thêm.

4. Quyền kháng cáo: Chị M có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 15/9/2022).

Anh N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 77/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:77/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về