Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi contheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/20222/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 05 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1984 (vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Vũ Viết D1, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: ấp 4B, xã Xuân Bắc, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Chị và anh Vũ Viết D1 tự nguyện tìm hiểu yêu thương và chung sống với với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 05/01/2009 tại UBND xã Xuân Bắc, huyện Xuân Lộc. quá trình chung sống, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do anh D1 thường hay cờ bạc, bất đồng quan điểm về cách sống nên cả hai không tìm được tiếng nói chung, cải vả thường xuyên xảy ra dẫn đến tình cảm ngày một lạnh nhạt. Đến tháng 10/2021 chị và các con về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng không ai còn qua lại hay liên lạc với nhau. Nay chị nhận thấy, mục đích của hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D1.

- Về con chung: Vợ chồng chung sống có 02 con chung là cháu Vũ Hương G, sinh ngày 10/3/2010 và cháu Vũ Gia Minh K, sinh ngày 01/6/2015. Sau khi ly hôn chị D yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu và không yêu cầu anh Duy cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Vũ Viết D1 đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh lấy lời khai người làm chứng ngày 28 tháng 02 năm 2022, ông Vũ Viết C, sinh năm 1956 là cha ruột của bị đơn anh Vũ Viết D cung cấp thì nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Dn và anh D1 xảy ra kể từ khi đại dịch Covid – 19 cách đây khoảng một năm, chị D tự ý bỏ nhà đi, đến nhà chị ruột của chị D sinh sống và không rõ lý do gì mà chị D yêu cầu ly hôn anh D1.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật.

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Về hôn nhân: chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị D. Chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Vũ Viết D1.

Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị D tiếp tục nuôi dưỡng 02 cháu Vũ Hương G, sinh ngày 10/3/2010 và cháu Vũ Gia Minh K, sinh ngày 01/6/2015 đến 18 tuổi và có khả năng lao động, chị D không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: chị D khai không có, anh D1 không có lời khai về tài sản chung và nợ chung nên cần tách ra giải quyết khi các đương sự có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị D có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt chị D là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Viết D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến dự phiên Tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án vẫn tiếp tục xét xử vắng mặt anh D1 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D khởi kiện ly hôn với anh Vũ Viết D1, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiên ly hôn đối với anh D1. Xét yêu cầu khởi kiện của chị D Hội đồng xét xử nhận định:

Chị Nguyễn Thị D và anh Vũ Viết D1 tự nguyện tìm hiểu yêu thương và chung sống với với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 05/01/2009 tại UBND xã Xuân Bắc, huyện Xuân Lộc. Theo chị Nguyễn Thị D vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do anh D1 thường hay cờ bạc, bất đồng quan điểm về cách sống nên cả hai không tìm được tiếng nói chung, cải vả thường xuyên xảy ra dẫn đến tình cảm ngày một lạnh nhạt. Đến tháng 10/2021 chị và các con về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng không ai còn qua lại hay liên lạc với nhau. Nay chị nhận thấy, mục đích của hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D1.

Xét cuộc hôn nhân giữa chị D và anh D1 tình cảm không còn, đời sống không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu trên của chị D là có cơ sở và cũng phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Giao hai cháu Vũ Hương G, sinh ngày 10/3/2010 và cháu Vũ Gia Minh K, sinh ngày 01/6/2015 cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng đến 18 tuổi và có khả năng lao động. Tạm thời chị D không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Anh D1 được quyền qua lại, thăm non, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Khi cần thiết, anh D1, chị D được quyền yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng việc nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do chị D, anh D1 không có lời khai về tài sản chung và nợ chung nên cần tách ra giải quyết khi các đương sự có yêu cầu.

[6] Về án phí: áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2006/UBTVQH 14 ngày 30/12/2006 của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 26, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Vũ Viết D1.

- Về con chung: Giao hai cháu Vũ Hương G, sinh ngày 10/3/2010 và cháu Vũ Gia Minh K, sinh ngày 01/6/2015 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến 18 tuổi và có khả năng lao động. Tạm thời anh D1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh D1 được quyền qua lại, thăm non, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Khi cần thiết, anh D1, chị D được quyền yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng việc nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Do chị D, anh D1 không có lời khai về tài sản chung và nợ chung nên cần tách ra giải quyết khi các đương sự có yêu cầu.

- Về án phí: áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2006/UBTVQH 14 ngày 30/12/2006 của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:76/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về