Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 67/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 67/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 425/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 105/2022/QĐST – HNGĐ ngày 05/9/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1992;

HKTT: 59B/5 ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1988 Địa chỉ: 59B/5 ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 6 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn - chị Nguyễn Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Xuân Đ quen biết tìm hiểu được 06 (sáu) tháng thì vợ chồng tự nguyện đi đến UBND xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất đăng ký kết hôn vào ngày 18/4/2019. Đây là hôn nhân lần đầu của chị V.

Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại nhà cha mẹ chồng địa chỉ 59B/5 ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ sau khi vợ chồng kết hôn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nên vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn xúc phạm danh dự nhau. Nguyên nhân chính dẫn tới mâu thuẫn vợ chồng là do anh Đ không tu chí làm ăn lo cho gia đình, bỏ bê không quan tâm đến vợ con. Anh Đ thường bỏ nhà đi một hai tuần mới về nhà một lần, mỗi lần về anh Đ thường tự ý lấy tiền vốn buôn bán của chị rồi tiêu xài cá nhân. Chị V đã nhiều lần khuyên anh Đnên sửa đổi bản thân nhưng anh Đông không chịu khắc phục. Vào tháng 5/2022, chị Vđã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, sau đó có rút đơn cho anh Đ một cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Đ vẫn tính nào tật nấy không chịu thay đổi.

Hiện tại anh Đ thường xuyên bỏ nhà đi một hai tuần mới về nhà một lần, vợ chồng không quan tâm đến cuộc sống của nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên nhiều lần hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị V yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn Xuân Đ.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có 01 con chung là cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 04/02/2020. Khi ly hôn chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Hiện chị làm dược sỹ, thu nhập bình quân 10.000.000đ/tháng.

Về tài sản chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Nguyễn Xuân Đ vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và chứng cứ, tài liệu có liên quan về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, cả nguyên đơn, bị đơn đều không đến tham dự phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn không có mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V được ly hôn với anh Nguyễn Xuân Đ.

+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 04/02/2020 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời anh Nguyễn Xuân Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn và tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chung, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn anh Nguyễn Xuân Đ cư trú tại ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt, nguyên đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Xuân Đ tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân UBND xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai đăng ký kết hôn vào ngày 18/4/2019 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, nhận thấy: Chị V xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, vợ chồng tuy sống chung nhưng anh Đ thường xuyên bỏ nhà đi một hai tuần mới về nhà một lần, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và chia sẻ với nhau công việc trong gia đình. Quá trình ly thân giữa anh chị cũng không còn sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau là có căn cứ phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại biên bản lấy lời khai đề ngày 07/7/2022, anh Lại Phúc Thành Đ là hàng xóm của chị V và anh Đ cho biết anh Đ là người ham chơi, không tu chí làm ăn, thường xuyên đi mượn tiền giang hồ bên ngoài. Anh Đ nhiều lần chứng kiến việc nhiều người cầm hung khí đến nhà anh Đ đòi nợ.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần tổ chức Hòa giải để giúp anh chị có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng anh Đ đều vắng mặt, cả anh Đ và chị Vđều không có ý thức hàn gắn hay có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra. Điều này cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của chị V và anh Đ đã trầm trọng, kéo dài nhưng không có hướng khắc phục, tình cảm vợ chồng không có điều kiện để hàn gắn nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng chung sống có Nguyễn Minh T, sinh ngày 04/02/2020.

Xét yêu cầu của nguyên đơn khi ly hôn được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Minh Tâm, nhận thấy: con chung hiện dưới 36 tháng tuổi và đang sống chung với chị V, chị V làm dược sỹ thu nhập bình quân 10.000.000đ/tháng. Do đó, để đảm bảo điều kiện phát triển bình thường, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, không làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của con trẻ cần tiếp và phù hợp với quy định pháp luật cần giao cháu Nguyễn Minh T cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị V không yêu cầu cấp dưỡng nên tạm thời anh Đông không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị V xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị V.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Xuân Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 04/02/2020 cho chị Nguyễn Thị V được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời anh Nguyễn Xuân Đ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị V không yêu cầu.

Anh Nguyễn Xuân Đ được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí sang nộp án phí theo biên lai thu số 0008785 ngày 06 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Chị V đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 67/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về