Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 58/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 97/2022/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/8/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Ngoan K, sinh năm 1988; (có mặt). Địa chỉ: ấp V P A, xã Vĩnh P Đ, huyện P L, tỉnh Bạc Liêu;

2. Bị đơn: Chị Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1990; (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà R Khóm C S, Phường Y, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 5 năm 2022, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn anh Bùi Ngoan K trình bày:

Năm 2012, anh Bùi Ngoan K kết hôn với chị Lê Thị Mỹ H và được Ủy ban nhân dân Phường X, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 25/4/2012 (do trước đây hộ khẩu thường trú ở Phường X, thị xã V C). Sau khi kết hôn, anh K và chị H sống với nhau rất hạnh phúc và sinh một đứa con chung tên Bùi Phương N (nữ), sinh ngày 05/9/2013 hiện nay đang sống chung với chị H. Sau đó, cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và mâu thuẫn xảy ra ngày càng trầm trọng hơn. Vợ chồng không còn sống chung với nhau từ tháng 4 năm 2017 cho đến nay.

Nay, anh Bùi Ngoan K yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Ngoan K xin được ly hôn với chị Lê Thị Mỹ H.

- Về con chung: Tùy theo nguyện vọng của con tên Bùi Phương N (nữ) sinh ngày 05/9/2013, muốn sống với cha hoặc mẹ. Nếu muốn sống với mẹ thì chị Lê Thị Mỹ H nuôi dưỡng và anh Bùi Ngoan K không phải cấp dưỡng nuôi con. Còn nếu muốn sống với cha thì anh Bùi Ngoan K nuôi dưỡng và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Lê Thị Mỹ H:

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án; thông báo mở phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đối với bị đơn chị Lê Thị Mỹ H để tham gia phiên tòa nhưng chị H vẫn cố tình vắng mặt. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Tòa án có thông báo kết quả mở phiên họp cho chị Lê Thị Mỹ H biết.

Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến:

Về pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn chị Lê Thị Mỹ H chưa chấp hành tốt theo giấy triệu tập của Tòa án tại các phiên họp và hòa giải. Đồng thời, bị đơn chị Lê Thị Mỹ H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Lê Thị Mỹ H theo quy định của pháp luật.

Về pháp luật nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Bùi Ngoan K được ly hôn với chị Lê Thị Mỹ H.

+ Về con chung: Giao cháu Bùi Phương N (nữ) sinh ngày 05/9/2013 cho chị Lê Thị Mỹ H tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Mỹ H không yêu cầu, không xem xét giải quyết.

+ Về tài sản chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày, tự thỏa thuận, nên không xem xét giải quyết.

+ Về nợ chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày không có, nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi Nên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về pháp luật tố tụng:

[1]. Nguyên đơn anh Bùi Ngoan K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: “Ly hôn; tranh chấp nuôi con” là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án thụ lý giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn chị Lê Thị Mỹ H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Lê Thị Mỹ H theo quy định của pháp luật.

Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Ngoan K với chị Lê Thị Mỹ H được xác lập vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn đúng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Ngoan K với chị Lê Thị Mỹ H là hợp pháp. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do trong thời gian sống chung với nhau anh Bùi Ngoan K với chị Lê Thị Mỹ H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và không còn sống chung với nhau từ tháng 04 năm 2017 cho đến nay. Tại phiên tòa, anh Bùi Ngoan K kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với chị Lê Thị Mỹ H. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Ngoan K với chị Lê Thị Mỹ H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào các Điều 51, 53, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh Bùi Ngoan K được ly hôn với chị Lê Thị Mỹ H.

[2] Về con chung: Đối với cháu Bùi Phương N (nữ) sinh ngày 05/9/2013 hiện nay do chị Lê Thị Mỹ H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy, chị Lê Thị Mỹ H có đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục cháu trong môi trường lành mạnh, đảm bảo sự phát triển của con tốt về thể chất cũng như tinh thần. Đồng thời, cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu N. Đồng thời, tại phiên tòa anh Bùi Ngoan K cũng đồng ý giao cho chị Lê Thị Mỹ H được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Bùi Phương N (nữ) sinh ngày 05/9/2013 cho chị Lê Thị Mỹ H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Mỹ H không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày, tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Bùi Ngoan K phải chịu theo quy định của pháp luật.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 2 Điều 143; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Các Điều 51, 53, 56, 57, 58; 81; 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Bùi Ngoan K được ly hôn với bị đơn chị Lê Thị Mỹ H.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Phương N (nữ) sinh ngày 05/9/2013 cho chị Lê Thị Mỹ H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi.

Trong thời gian chị Lê Thị Mỹ H nuôi con, không ai có quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc, giáo dục của cha, mẹ đối với con chung.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Mỹ H không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về nợ chung: Anh Bùi Ngoan K trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét không xem xét giải quyết.

6. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Bùi Ngoan K phải chịu là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu số: 0004260 ngày 19/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu. Anh Bùi Ngoan K đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

7. Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với bị đơn, thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày niêm yết Bản án hợp lệ.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:58/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về