Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG-THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1986 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Khu phố 4, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08 tháng 4 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Huỳnh Thị H trình bày:

Bà và ông Nguyễn Ngọc T tự nguyện tìm hiểu, quen biết nhau, gia đình có tổ chức cưới hỏi hai bên về chung sống cùng nhau từ năm 2006 đến năm 2008 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại khu phố 4, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Vợ chồng sống hạnh phúc thời gian khoảng 4 năm đầu, sau đó thường xuyên cãi nhau, ông T đánh bà nhiều lần, nhưng vì các con nên bà đã bỏ qua. Đầu năm 2022, ông T và bà có cãi nhau về tiền bạc, ông T đe dọa sẽ đâm bà và chửi bới nhục mạ do lo sợ nên bà đưa 03 con về nhà ngoại sống từ đó cho đến nay. Cả hai không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai nấy sống. Nay mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc nên bà đề nghị Tòa giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T.

Về con chung: Bà và ông T có 03 con chung tên: Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 02/8/2006; Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 07/6/2008 và Nguyễn Ngọc Minh N, sinh ngày 17/01/2015. Nếu được ly hôn bà yêu cầu được nuôi các con và ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con là 1.000.000đ/1 tháng/1 con. Quá trình giải quyết vụ án bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Các con hiện nay đang sống với bà, bà làm công nhân tại Công ty TNHH XDTM và SX Nam Thành tỉnh Ninh Thuận lương tháng là 5.367.000 đồng; tiền tăng thêm, lễ tết bình quân thu nhập hơn 6.000.000 đồng/tháng, ngoài ra bà còn được sự hỗ trợ của gia đình bên ngoại nên đủ khả năng lo cho các con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyễn Ngọc T: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng ông T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Nguyễn Ngọc T. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T có nơi cư trú tại khu phố 4, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Ngọc T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 02 ngày 07/01/2008, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà Huỳnh Thị H trình bày: Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 4 năm đầu, sau đó hai vợ chồng hay cãi nhau, ông T thường xuyên đánh bà, nhưng vì các con nên bà nhiều lần bỏ qua. Đầu năm 2022 cho đến nay bà và ông T không còn sống chung với nhau. Tại đơn trình báo đề ngày 21/4/2022 của bà Huỳnh Thị H nộp cho Tòa án, Ban quản lý khu phố 4, phường Văn Hải và Hội liên hiệp phụ nữ phường Văn Hải xác nhận: “…hiện gia đình có những bất đồng không thể hòa giải, khu phố cũng đã vận động hòa giải nhưng không tiến triển”. Điều đó thể hiện rõ việc mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông T là có thật. Ngoài ra, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng ông T không đến Tòa án để làm việc, có thái độ bỏ mặc không thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, căn cứ theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[2.2] Về con chung: Bà H và ông T có 03 con chung là: Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 02/8/2006; Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 07/6/2008 và Nguyễn Ngọc Minh N, sinh ngày 17/01/2015. Xét yêu cầu được nuôi con của bà H, thấy rằng: Sau khi hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn thì từ đầu năm 2022 cho đến nay các cháu Nguyễn Thị Ngọc T, Nguyễn Thị Ngọc T và Nguyễn Ngọc Minh N do bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, các cháu đều có nguyện vọng sống với mẹ. Bà H làm công nhân, thu nhập bình quân khoảng 6.000.000 đồng/tháng ngoài ra bà còn được sự hỗ trợ của gia đình bên ngoại nên đủ khả năng lo cho các con, phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Do vậy, Hội đồng xét xử giao các cháu Nguyễn Thị Ngọc T, Nguyễn Thị Ngọc T và Nguyễn Ngọc Minh N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục là phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà Huỳnh Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị H.

1. Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T.

2. Về con chung: Giao cho bà Huỳnh Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 03 con chung là Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 02/8/2006; Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 07/6/2008 và Nguyễn Ngọc Minh N, sinh ngày 17/01/2015. Ông Nguyễn Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Huỳnh Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003458 ngày 12/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Huỳnh Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/7/2022). Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về