Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 54/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số 4027, Tổ 6, ấp P, xã S, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Trần Quang K, sinh năm 1992 Địa chỉ: Số 84, Tổ 1, Ấp 3, xã N, huyện Tân Phú, Đồng Nai.

(Chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh K vắng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Trần Quang K kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 08/11/2019 tại Uỷ ban nhân dân xã N và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Chị và anh K chung sống đến tháng 4/2021 thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống và không còn hòa hợp. Anh K thường xuyên uống rượu gây chuyện cự cãi, tính cách gia trưởng, không tôn trọng chị. Chị nhận thấy tình cảm không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Trần Quang K.

- Về nuôi con: Chị N và anh K có 02 (hai) con chung là Nguyễn Nhật K, sinh ngày 07/5/2017 và Trần Quang H, sinh ngày 30/8/2020. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và cháu H, chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng cho con. Hiện nay chị đang làm may tại nhà, thu nhập khoảng 10.000.000đ/01 tháng. Còn anh K làm thuê, lương và thu nhập không ổn định.

- Về tài sản: Chị và anh K không có tài sản chung và nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh K không đến Tòa án tham gia tố tụng, khi Tòa án đến trực tiếp tại địa phương thì không gặp được, nên không thu thập được lời khai của bị đơn.

Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho bị đơn và thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; bị đơn không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N. Về hôn nhân: Cho chị N được ly hôn với anh K. Về con chung: Giao cho chị N trực tiếp nuôi các con chung, tạm thời anh K chưa phải cấp dưỡng cho con. Đề nghị về tài sản chung, nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có tranh chấp. Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Về Thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Trần Quang K có nơi cư trú tại xã N, huyện Tân Phú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh Trần Quang K, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Về tư cách tham gia tố tụng: Xác định tư cách đương sự chị N là nguyên đơn và anh K là bị đơn, quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.4] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên họp, phiên hòa giải không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.5] Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị N và anh K được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật ngày 08/11/2019. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo lời trình bày của chị N thì vợ chồng chị thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường xuyên cự cãi và anh K không quan tâm đến gia đình. Từ tháng 4/2021 đến nay, anh chị đã không còn chung sống. Bản thân anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc thể hiện có thái độ không quan tâm, không hợp tác, không có thiện chí đoàn tụ gia đình khi biết chị N có đơn yêu cầu ly hôn.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về tình trạng hôn nhân tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác cũng thể hiện phù hợp với lời khai của nguyên đơn. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định, chị N và anh K đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận.

- Về nuôi con: Chị N và anh K có 02 (hai) con chung là Nguyễn Nhật K, sinh ngày 07/5/2017 và Trần Quang H, sinh ngày 30/8/2020. Khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi cháu K và cháu H mà không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chị N, anh K đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử không ghi nhận được ý kiến của các bên về việc nuôi con, tuy nhiên theo kết quả xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện: Sau khi anh chị không còn chung sống, các con chung do chị N nuôi dưỡng, bản thân chị N cò nghề nghiệp ổn định và đủ khả năng chăm sóc nuôi dưỡng vì vậy tiếp tục giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét nên chấp nhận yêu cầu về nuôi con chung của chị N là có cơ sở chấp nhận.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xét không xem xét.

- Về tài sản: Chị N trình bày không có về tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh K không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung, nợ chung và không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, Hội đồng xét xử tách phần tài sản ra giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

[3] Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N.

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Trần Quang K.

- Về nuôi con: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi các con chung là Nguyễn Nhật K, sinh ngày 07/5/2017 và Trần Quang H, sinh ngày 30/8/2020, - Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét.

- Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản: Không xem xét.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Tuyền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002228 ngày 03/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về