Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 81/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19-5-2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08-6-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Huỳnh Nhật H, sinh năm: 1996 (có mặt).

Nơi cư trú: Số 75/1 đường Trần Phú, khu phố 5, phường Phủ Hà, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Võ Đức M, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 78B đường Trường Chinh, khu phố 1, phường Văn H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08-02-2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Huỳnh Nhật H trình bày:

Bà Lê Huỳnh Nhật H và ông Võ Đức M chung sống với nhau có cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Văn H năm 2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình của bà tại khu phố 5, phường Phủ H, thành phố P. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc do ông M còn ham chơi, nhậu nhẹt, đi làm về không hỗ trợ, giúp đỡ gì cho bà nuôi con. Từ năm 2018 vợ chồng dù ở chung nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không quan tâm chăm sóc gì đến nhau. Đến năm 2020 ông M dọn về nhà cha mẹ ruột ông sống tại khu phố 1, phường Văn H, thành phố P cho đến nay và vợ chồng bà không còn liên lạc, gặp gỡ để hàn gắn tình cảm. Nay bà đã không còn tình cảm nữa nên yêu cầu Tòa án cho ly hôn ông M.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Võ Bảo H1, sinh ngày 05- 02-2017. Cháu H1 đang sống với bà và ông bà ngoại từ nhỏ đến này. Nếu được ly hôn, bà xin nuôi con, không yêu cầu ông M cấp dưỡng. Bà đang làm nghề trang điểm, thu nhập mỗi tháng từ 15-18 triệu đồng nên đủ khả năng nuôi con, không cần ông M cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn là ông Võ Đức M quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông M nhưng ông M vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vắng mặt bị đơn.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Lê Huỳnh Nhật H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Võ Đức M. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại phường Văn H, thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông M đều vắng mặt. Điều này chứng tỏ ông M đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Bà Lê Huỳnh Nhật H và ông Võ Đức M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Văn H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 155 ngày 27-12-2016, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2.2] Về quan hệ hôn nhân: Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Bà H và ông M quá trình chung sống có mâu thuẫn do ông M ham nhậu nhẹt, không quan tâm chăm sóc đến gia đình. Từ năm 2020 đến nay bà H và ông M đã mạnh ai nấy sống và cũng không còn liên hệ, gặp gỡ hay hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tình trạng mâu thuẫn của bà H và ông M phù hợp với Đơn trình bày có xác nhận của Hội Liên hiệp Phụ nữ phường Phủ H, thành phố P do nguyên đơn cung cấp.

Ông M biết việc bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng không tham gia tố tụng thể hiện ông M không có thiện chí và không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà H và ông M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[2.3] Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung tên Võ Bảo H1, sinh ngày 05-02-2017. Bà H có yêu cầu trực tiếp nuôi con, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu H1 từ trước đến nay đều sống với bà H; lại là con gái nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Bà H có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, có khả năng để nuôi con nên Hội đồng xét xử giao cháu H1 cho bà Lê Huỳnh Nhật H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Võ Đức M không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không có yêu cầu.

[3] Tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Lê Huỳnh Nhật H được ly hôn với ông Võ Đức M.

2. Về con chung: Giao cho bà Lê Huỳnh Nhật H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Võ Bảo H1, sinh ngày 05-02-2017. Ông Võ Đức M không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Lê Huỳnh Nhật H không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Lê Huỳnh Nhật H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0003363 ngày 08-02-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Lê Huỳnh Nhật H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về