Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 107/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Ngân Th, sinh năm: 1992 HKTT và nơi cư trú: ấp 1, xã X Q, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1989 HKTT và nơi cư trú: ấp 1, xã X Q, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Th vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh L vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản đối chất, nguyên đơn chị Nguyễn Ngân Th trình bày:

Trên cơ sở tự nguyện, chị Nguyễn Ngân Th và anh Nguyễn Văn L tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại UBND xã X Q, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai vào ngày 06/05/2016. Đây là hôn nhân lần đầu của cả hai. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, do chị phát hiện anh L ngoại tình với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra ghen tuông. Anh L trong quá trình chung sống không quan tâm đến gia đình, cũng không chăm lo kinh tế gia đình, thường rượu chè say xỉn dẫn đến vợ chồng cãi vã đánh nhau. Vào tháng 10/2019 chị đã có nộp đơn ly hôn, tuy nhiên anh L xin cơ hội để đoàn tụ nên chị đồng ý, tuy nhiên từ đó đến nay anh L vẫn không hề thay đổi. Nay nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể hòa giải đoàn tụ, đã sống ly thân từ tháng 09/2021 nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh L.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Tuệ L1, sinh ngày 18/11/2016, hiện cháu đang ở cùng chị Th. Nay chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Th trình bày không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai và biên bản đối chất, bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày: Anh L thống nhất với trình bày của chị Th về quá trình hôn nhân và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Vợ chồng không thể giải quyết được các vấn đề mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ tháng 09/2021. Nay anh xác định vợ chồng không còn tình cảm nên đồng ý ly hôn với chị Th.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Tuệ L1, sinh ngày 18/11/2016. Anh L đồng ý giao con là cháu L1 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng và anh sẽ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng số tiền 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: anh L trình bày không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành pháp luật và nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng bị đơn chưa chấp hành đầy đủ và vắng mặt không có lý do, nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định.

Về đường lối giải quyết: áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và 118 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Ngân Th ly hôn anh Nguyễn Văn L; về con chung: giao cháu Nguyễn Tuệ L1, sinh ngày 18/11/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh L cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng 2.000.000 đồng; về tài sản chung và nợ chung: không ai yêu cầu nên không xem xét giải quyết; về án phí sơ thẩm: theo quy định pháp luật.

Kiến nghị khắc phục: không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Ngân Th có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con với anh Nguyễn Văn L. Anh L có đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại ấp 1, xã X Q, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Nên căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng chị Th có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh L vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngân Th và anh Nguyễn Văn L tự nguyện chung sống và đã đăng ký kết hôn tại UBND xã X Q, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai vào ngày 06/5/2016 nên xác định là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Quá trình chung sống, chị Th cho rằng cuộc sống chung không hạnh phúc, do anh L không chăm lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, không chung thủy dẫn đến vợ chồng ghen tuông, cãi vã và xảy ra xô xát, mặc dù chị đã cho anh L cơ hội để sửa đổi nhưng vẫn không thay đổi. Do không thể tiếp tục chung sống nên chị Th đã sống ly thân với anh L từ tháng 9/2021 đến nay. Bản thân anh L cũng thừa nhận mâu thuẫn giữa hai vợ chồng và không thể hòa giải được, hiện vợ chồng không còn tình cảm nên anh L đồng ý ly hôn.

Từ lời trình bày của anh chị, Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh L đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Th là có cơ sở nên chấp nhận.

- Về con chung: Chị Th và anh L đều trình bày thống nhất giao cháu Nguyễn Tuệ L1, sinh ngày 18/11/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng và thỏa thuận anh L sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng là 2.000.000 đồng. Do đó có căn cứ để ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th và anh L đều khai không có và không ai yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật. Anh L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và 118 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngân Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngân Th được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tuệ L1, sinh ngày 18/11/2016 cho chị Nguyễn Ngân Th trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 2.000.000 (hai triệu) đồng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chấm dứt theo Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh L được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của trẻ khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Ngân Th phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, chuyển tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Th đã nộp sang án phí theo biên lai thu tiền số 0001101 ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

Anh Nguyễn Văn L phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án được tống đạt hợp lệ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu lãi suất của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về